Giáo trình Triết học (dùng cho khối không chuyên ngành triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn)

Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC 1. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học a) Triết học và đối tượng của triết học - Quan niệm về triết học Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI (tr. CN) và đã đạt được thành tựu rực rỡ trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Theo gốc Hán tự, thuật ngữ “triết” được có nghĩa là “trí”, chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh. Trong văn hóa Ấn Độ, thuật ngữ “triết” là “darshana”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng” nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, thuật ngữ “triết học” lần đầu xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì thuật ngữ triết học “philosophia” gồm hai từ ghép: “philos” là “yêu thích” và “sophia” là sự thông thái; ý nghĩa của thuật ngữ triết học là “ yêu mến sự thông thái”. Vì vậy, triết học được xem là hình thức cao nhất của tri thức, vừa mang tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người; còn “nhà triết học” (triết gia) được gọi là nhà thông thái, nhà tư tưởng - người có khả năng nhận thức được chân lý và làm sáng tỏ bản chất của sự vật, hiện tượng.

doc518 trang | Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Triết học (dùng cho khối không chuyên ngành triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO (Đã sửa sau thẩm định_để xuất bản) GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC (Dùng cho khối không chuyên ngành Triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn) Hà Nội, 12/2013 MỤC LỤC Chương Nội dung Trang 1 Khái luận Triết học 2 Bản thể luận 3 Phép biện chứng 4 Nhận thức luận 5 Học thuyết Hình thái kinh tế-xã hội 6 Triết học chính trị 7 Ý thức xã hội 8 Triết học về con người Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC 1. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học a) Triết học và đối tượng của triết học - Quan niệm về triết học Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI (tr. CN) và đã đạt được thành tựu rực rỡ trong các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Theo gốc Hán tự, thuật ngữ “triết” được có nghĩa là “trí”, chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh. Trong văn hóa Ấn Độ, thuật ngữ “triết” là “darshana”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng” nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, thuật ngữ “triết học” lần đầu xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì thuật ngữ triết học “philosophia” gồm hai từ ghép: “philos” là “yêu thích” và “sophia” là sự thông thái; ý nghĩa của thuật ngữ triết học là “ yêu mến sự thông thái”. Vì vậy, triết học được xem là hình thức cao nhất của tri thức, vừa mang tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người; còn “nhà triết học” (triết gia) được gọi là nhà thông thái, nhà tư tưởng - người có khả năng nhận thức được chân lý và làm sáng tỏ bản chất của sự vật, hiện tượng... Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, ở thời kỳ đầu hay sau này, người ta đều quan niệm triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc thế về giới, nắm bắt được chân lý, hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng. Thời gian xuất hiện và cách thức sử dụng thuật ngữ triết học ở phương Đông và phương Tây tuy có khác nhau, song ý nghĩa, mục đích và cách thức thể hiện cơ bản là giống nhau, thống nhất, đều chỉ hoạt động tinh thần, thể hiện khả năng nhận thức, cách thức, phương pháp đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có trình độ khái quát hoá và tư duy trừu tượng cao. Theo quan điểm mácxít, triết học là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là học thuyết chung nhất về tồn tại và nhận thức; là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, có thể quan niệm, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. - Nguồn gốc ra đời của triết học Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Về nguồn gốc nhận thức: Theo quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, lịch sử loài người bắt đầu từ đâu thì lịch sử triết học bắt đầu từ đấy. Song, với tư cách là tri thức lý luận chung nhất, triết học đồng loạt xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ VIII - VI TCN, khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, trong xã hội đã hình thành chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; đã có giai cấp và nhà nước. Hệ quả tất yếu của các yếu tố nêu trên là lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay, tầng lớp trí thức ra đời. Họ có điều kiện nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm thành học thuyết, lý luận. Vào thời kỳ này, triết gia đã xuất hiện và triết học được hình thành. Chủ thể sáng tạo các học thuyết, lý luận triết học được lịch sử ghi nhận là Khổng Tử ở Trung Quốc, Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, Talet ở Hy Lạp, v.v.. Nói cách khác, triết học chỉ ra đời khi con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận. Sự ra đời của triết học gắn liền với nguồn gốc xã hội, tức là sự xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu tiên của nhân loại. Vào thời ấy, lao động đã phát triển đến mức phải phân chia thành lao động trí óc và lao động chân tay, chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước lần lượt ra đời, làm cho triết học, tự nó mang trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó công khai tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định. Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc lý luận có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự phân chia thành hai nguồn gốc như trên chỉ có tính chất tương đối. - Vấn đề đối tượng triết học Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử. Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là “triết học tự nhiên”, bao hàm trong nó toàn bộ tri thức của nhân loại. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này cho rằng, triết học là “khoa học của mọi khoa học”. Thời kỳ này, triết học đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hệ thống các quan điểm triết học đã ra đời và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của triết học các thời đại sau nó, thậm chí ảnh hưởng đến cả sự phát triển của toán học, vật lý học, hóa học, thiên văn học và các ngành khoa học xã hội và nhân văn như đạo đức học, mỹ học, dân tộc học , xã hội học, v.v.. Vào thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu, quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần học, được coi là “cây thánh giá bằng vàng, ngự trị trên lâu đài nhận thức”. Vì thế, triết học chỉ còn nhiệm vụ là chứng minh sự đúng đắn của Kinh thánh, luận giải và thuyết phục người ta tin tưởng vào Chúa Trời. Triết học tự nhiên được thay thế bằng triết học kinh viện. Vào thế kỷ XV - XVI, cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên là sự phục hồi tưởng triết học duy vật cổ đại. Triết học dần dần tách khỏi thần học và các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận, nhận thức luận, logic học, mỹ học, đạo đức học Vào thế kỷ XVII - XVIII, triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự nhiên thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đỉnh cao của sự phát triển triết học duy vật thời kỳ này là ở Anh, Pháp, Hà Lan với những đại biểu tiêu biểu: Phranxi Bêcơn, Tômát Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiuýt, Hônbách (Pháp), Xpinôda (Hà Lan) Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, sự phát triển của các khoa học cụ thể và thành tựu mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học thành “khoa học của mọi khoa học”; trong số đó, triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Vào những năm 40 của thế kỷ thứ XIX, triết học Mác ra đời, C.Mác và Ph. Ăngghen đã làm cuộc cách mạng trong triết học. Vì thế, triết học Mác đã đoạn tuyệt với các quan niệm sai lầm khi coi triết học là “ khoa học của mọi khoa học”. Với thế giới quan duy vật biện chứng, triết học Mác đã xác định đúng đắn đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của mình; đặt cơ sở khoa học cho các môn khoa học cụ thể phát triển. Với tư cách là một khoa học, triết học Mác nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. b) Vấn đề cơ bản của triết học và chức năng cơ bản của triết học - Vấn đề cơ bản của triết học Tất cả các hiện tượng trong thế giới chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật chất, tồn tại bên ngoài ý thức chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức chúng ta. Mặc dù các học thuyết triết học đề ra các quan niệm khác nhau về thế giới thì câu hỏi đặt ra cần trả lời là: Thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người có quan hệ như thế nào với thế giới tinh thần tồn tại trong đầu óc con người? Tư duy của con người có khả năng hiểu biết tồn tại thực của thế giới hay không? Có thể nói, bất kỳ trường phái triết học nào cũng có cái chung là đề cập đến và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ở đâu, lúc nào việc nghiên cứu được tiến hành một cách khái quát trên bình diện vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức thì lúc đó tư duy triết học được bắt đầu. Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại của triết học. Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề cơ bản triết học quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường phái triết học. Giải quyết vấn đề này là cơ sở, điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học, đồng thời quyết định cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống xã hội. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức, giới tự nhiên và tinh thần cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Tuỳ thuộc vào lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất, các học thuyết triết học khác nhau chia thành hai trào lưu cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất. Hình thái lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại. Hình thái này đã xuất hiện ở nhiều dân tộc trên thế giới mà tiêu biểu là ở các nước: Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp, La Mã cổ đại. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Quan điểm đó nói chung là đúng đắn nhưng do khoa học chưa phát triển nên triết học chưa thể dựa vào thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành. Do vậy, chủ nghĩa duy vật chưa thể đứng vững trước sự tấn công của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đặc biệt trong thời kỳ Trung cổ. Hình thái thứ hai là chủ nghĩa duy vật, máy móc, siêu hình thế kỷ XVII -XVIII. Hình thái này ra đời khi giai cấp tư sản đang lên, nhằm chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Nhưng do ảnh hưởng của quan điểm máy móc, cơ học và phương pháp mô tả, thực nghiệm, chia cắt nên chủ nghĩa duy vật không thoát khỏi quan điểm máy móc, siêu hình. Quá trình đấu tranh khắc phục các thiếu sót máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII đồng thời là quá trình ra đời của hình thái lịch sử thứ ba là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó được xây dựng và không ngừng phát triển trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại và thực tiễn của thời đại mới. Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho rằng, ý thức, tinh thần có trước và là cơ sở cho sự tồn tại của giới tự nhiên, vật chất. Chủ nghĩa duy tâm cũng xuất hiện ngay từ thời cổ đại và tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng: Platôn, Hêghen... cho rằng, có một thực thể tinh thần ("lý tính thế giới"; "tinh thần tuyệt đối", "ý niệm tuyệt đối") là cái có trước thế giới vật chất, tồn tại ở bên ngoài con người và độc lập đối với con người, sản sinh ra và quyết định tất cả các quá trình của thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu nổi tiếng: Béccơli, Hium, Phíchtơ, v.v., cho rằng cảm giác, ý thức của con người là cái có trước và quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là "những tổng hợp của cảm giác", là "phức hợp của các cảm giác". Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận luôn cả tính quy luật khách quan của các sự vật, hiện tượng và tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã. Cả hai dạng của chủ nghĩa duy tâm, tuy có khác nhau trong quan niệm cụ thể nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi ý thức, tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra và quyết định vật chất. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm làm cơ sở lý luận cho các quan điểm của mình. Tuy nhiên, thế giới quan tôn giáo dựa trên cơ sở lòng tin. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học dựa trên cơ sở tri thức, là sản phẩm của tư duy lý tính của con người. Do vậy, các học thuyết triết học duy tâm ít nhiều đều có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Chủ nghĩa duy vật có mối liên hệ chặt chẽ với các lực lượng, các giai cấp tiến bộ, cách mạng và luôn gắn bó, quan hệ mật thiết với sự phát triển của khoa học. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc xã hội là mối liên hệ với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc nhận thức của nó là tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức, tách ý thức ra khỏi thế giới vật chất. Lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm (hai đảng phái chính) tạo nên động lực bên trong của sự phát triển triết học, đồng thời biểu hiện cuộc đấu tranh hệ tư tưởng của các giai cấp đối nghịch trong xã hội. Các học thuyết triết học thuộc nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm) đều cho rằng, thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất, một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước quyết định cái kia. Ngoài nhất nguyên luận còn có các học thuyết triết học nhị nguyên luận, đó là các học thuyết cho rằng, vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại, là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Ngoài ra, còn có cả những học thuyết triết học đa nguyên luận, cho rằng vạn vật là do vô số nguyên thể độc lập cấu thành. Các học thuyết triết học nhị nguyên luận hoặc đa nguyên luận đều không triệt để khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản triết học; do đó thường sa vào chủ nghĩa duy tâm. Đối với mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, đa số các nhà triết học, cả duy vật và duy tâm đều trả lời khẳng định, tức là thuộc trường phái "khả tri". Triết học gọi đó là tính đồng nhất của tư duy và tồn tại. Các nhà triết học duy vật tìm cơ sở của sự đồng nhất đó ở vật chất, còn các nhà triết học duy tâm tìm cơ sở đó ở ý thức, tinh thần. Các nhà triết học cho rằng, con người không thể hiểu biết thế giới, học thuyết của họ được gọi là "thuyết không thể biết" (bất khả tri). Thuyết không thể biết đã bị phê phán gay gắt. Đồng thời, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách triệt để nhất. - Chức năng cơ bản của triết học Cũng như mọi khoa học, triết học cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Đó là các chức năng thế giới quan và phương pháp luận, chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán... Tuy nhiên, chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết học nói chung và là "thiên chức" của triết học Mác - Lênin nói riêng. Chức năng thế giới quan: Trong thế giới, những vấn đề đặt ra và cần tìm lời giải đáp, trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Có thể ví thế giới quan như một “thấu kính”, qua đó, con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như xem xét bản thân mình để từ đó, xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động sao cho phù hợp để đạt được mục đích đặt ra. Đây là cơ sở đúng đắn để mỗi người xây dựng nhân sinh quan, xác định lẽ sống một cách tích cực trong nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, hệ thống quan điểm duy vật mácxít là nhân tố định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con người có cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình. Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng vai trò của phương pháp luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học có sự thống nhất hữu cơ. Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định. Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn. Trong đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan của con người phát triển như một quá trình tự giác. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động. Chức năng phương pháp luận: Phương pháp luận là hệ thống về những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: Phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung, phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận ngành (còn gọi là phương pháp luận bộ môn) là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó. Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số ngành khoa học. Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hoá phương pháp luận triết học. Nếu xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của phương pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra. 2. Sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử a) Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử Trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, có thể nhận thấy lịch sử triết học có hai nhóm tính quy luật. Nhóm tính quy luật phản ánh của lịch sử triết học được khái quát từ các điều kiện kinh tế, xã hội, sự phát triển của văn hoá và khoa học trong các giai đoạn lịch
Tài liệu liên quan