Đặt vấn đề: Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tăng nhanh trên thế giới.
Do đó, việc tầm soát tiền ĐTĐ mang lại một ích lợi quan trọng vì giúp phòng bệnh nguyên phát, nhất là ở người
trẻ hiện nay. Nghiệm pháp dung nạp (NPDN) glucose đường uống là một trong hai cách giúp để phát hiện tiền
ĐTĐ với khả năng phát hiện mạnh hơn. Tuy nhiên, thời gian 2 giờ cần cho việc thực hiện nghiệm pháp là khá
lâu và là một trong những rào cản đối với việc ứng dụng nghiệm pháp này trong thực tế nên cần thiết phải đánh
giá khả năng cải tiến.
Mục tiêu: Đánh giá khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên 354 học viên đến thực tập tại Bộ môn sinh lý học –
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Có khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dành cho các đối tượng có kết quả bình
thường tại thời điểm 90 phút và tỉ lệ trường hợp có thể được rút ngắn là 49%.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp phần đánh giá khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp Glucose, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 70
GÓP PHẦN ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG RÚT NGẮN THỜI GIAN
THỰC HIỆN NGHIỆM PHÁP DUNG NẠP GLUCOSE
Trần Ngọc Thanh*, Nguyễn Thị Lệ**, Nguyễn Thị Bích Đào***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tăng nhanh trên thế giới.
Do đó, việc tầm soát tiền ĐTĐ mang lại một ích lợi quan trọng vì giúp phòng bệnh nguyên phát, nhất là ở người
trẻ hiện nay. Nghiệm pháp dung nạp (NPDN) glucose đường uống là một trong hai cách giúp để phát hiện tiền
ĐTĐ với khả năng phát hiện mạnh hơn. Tuy nhiên, thời gian 2 giờ cần cho việc thực hiện nghiệm pháp là khá
lâu và là một trong những rào cản đối với việc ứng dụng nghiệm pháp này trong thực tế nên cần thiết phải đánh
giá khả năng cải tiến.
Mục tiêu: Đánh giá khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang trên 354 học viên đến thực tập tại Bộ môn sinh lý học –
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Có khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp dành cho các đối tượng có kết quả bình
thường tại thời điểm 90 phút và tỉ lệ trường hợp có thể được rút ngắn là 49%.
Từ khóa: nghiệm pháp dung nạp glucose, đường huyết lúc đói, tiền đái tháo đường, rối loạn dung nạp
glucose.
ABSTRACT
THE PROBABILITY OF SHORTERNING ORAL GLUCOSE TOLERANCE TEST TIME
Tran Ngoc Thanh, Nguyen Thi Le, Nguyen Thi Bich Dao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 69 - 73
Background: Vietnam is one of the most increasing prevalence of diabetes mellitus countries. Therefore,
screening and defining the prevalance of pre-diabestes are very important, especially in young adults. Oral
glucose tolerance test (OGTT), one of two ways to diagnose diabetes diseases and pre-diabetes has higher accuracy.
However, 2-hour test time is too long for using in community and needs to be improved.
Aim: to define the prevalence of pre-diabestes by using OGTT and to evaluate the probability of shortening
test time.
Method: cross-sectional study on 354 students practicing at Department of Physiology in the University of
Medicine and Pharmacy at HCMC.
Results: The prevalence of impaired glucose tolerance (pre-diabestes) by using OGTT was 26,5%. This
study showed that there was a probability of shortening test time and this might be used for people having normal
result at 90th minute of test. The prevalance of people who can be stopped at 90th minute of test was 49%.
Keywords: oral glucose tolerance test, fasting glucose test, pre-diabetes, impaired glucose tolerance.
* Bộ môn Sinh Lý Học, Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
** Bộ môn Sinh Lý Học, Đại Học Y Dược TP.HCM. *** Khoa Nội tiết, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thị Bích Đào, ĐT: 0983915048, Email: phd_bichdao@hotmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 71
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một rối loạn
chuyển hóa do nhiều nguyên nhân phức tạp.
Hậu quả của ĐTĐ là những tổn thương kéo dài,
rối loạn và suy chức năng của các cơ quan khác
nhau(3). Theo IDF 2011, hiện trên toàn thế giới có
khoảng 366 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, dự báo
đến năm 2030 con số này sẽ tăng lên 522 triệu
người(6). Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ
lệ bệnh ĐTĐ tăng nhanh. Do đó, việc tầm soát
tiền ĐTĐ mang lại một ích lợi quan trọng góp
phần phòng ngừa phát triển bệnh ĐTĐ. Nghiệm
pháp dung nạp (NPDN) glucose đường uống là
một trong ba cách giúp chẩn đoán ĐTĐ và cũng
là cách để phát hiện tiền ĐTĐ(4). Tuy nhiên,
nghiệm pháp dung nạp glucose cần thời gian
thực hiện là 2 giờ như vậy khá lâu và là một
trong những rào cản đối với việc ứng dụng
nghiệm pháp này trong thực tế. Vậy có thể rút
ngắn thời gian thực hiện hơn được không? Vì
vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá
khả năng rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm
pháp dung nạp glucose.
Mục tiêu: Đánh giá khả năng rút ngắn thời
gian thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 354 học viên đến thực tập tại Bộ môn
sinh lý học – Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh.
Tiêu chuẩn thu nhận
Có chế độ ăn không giới hạn (trong đó chứa
ít nhất 150g carbohydrate mỗi ngày) trong ít
nhất 3 ngày.
Ngưng đưa năng lượng vào cơ thể tối thiểu
8 giờ trước khi thực hiện nghiệm pháp (kể cả
việc hút thuốc lá và dùng cà phê).
Có thể tham gia thực hiện nghiệm pháp một
cách liên tục trong thời gian là 2 giờ, thời gian
bắt đầu trong khoảng từ 7 giờ đến 9 giờ sáng.
Hoàn toàn khỏe mạnh và không có dấu hiệu
lo lắng hay có thai.
Tiêu chuẩn loại trừ
Người có bệnh lý hoặc đang điều trị bệnh lý
nội, ngoại khoa.
Đang dùng thuốc thiazide, thuốc ngừa thai
đường uống, các corticoteroid hoặc các thuốc
khác được biết là có ảnh hưởng đến glucose
máu.
Người nghiện cà phê, thuốc lá.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Tiến cứu – cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Tính theo công thức:
Với α = 0,05, Z = 1,96 là giá trị tại độ tin cậy
95%, P = 0,094 là tỷ lệ ước đoán dựa theo báo cáo
đánh giá của dự án phòng chống ĐTĐ Việt
Nam, d = 0,05 thì cỡ mẫu cần thiết cho nghiên
cứu này là n = 131
Nội dung nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu
Tất cả các đối tượng được nghiên cứu sẽ
được hướng dẫn các nội dung cần tuân thủ, bao
gồm: vấn đề ăn uống cho ba ngày trước nghiệm
pháp, các sinh hoạt và việc dùng thuốc. Cần
duy trì chế độ dinh dưỡng như thường ngày và
dùng tối thiểu 3 chén cơm trắng trong một ngày.
Buổi sáng thực hiện nghiệm pháp, các đối
tượng sẽ được sàng lọc lại bởi các tiêu chuẩn.
Trong thời gian theo dõi, đối tượng sẽ không
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 72
được hoạt động thể lực gắng sức, không dùng
các chất có ảnh hưởng đến kết quả theo dõi.
Trị số đường huyết mao mạch tại các thời
điểm: trước uống dung dịch glucose, sau uống
dung dịch glucose 30 phút, 60 phút, 90 phút, 120
phút.
Đánh giá kết quả đo đường huyết(2,3).
Đối tượng được chẩn đoán là tiền đái tháo
đường khi:
- Glucose lúc đói là trong khoảng ≥ 100
mg/dl đến < 126 mg/dl (5,6-7,0 mmol/l)
- Hoặc nghiệm pháp dung nạp glucose bằng
đường uống từ ≥ 140mg/dl đến < 200 mg/dl. (7,8-
11.1 mmol/l) và đường huyết lúc đói < 126 mg/dl
(7.0 mmol/l).
Xử lý số liệu
Phần mềm EXCEL 2007 và SPSS 16.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tần suất
nguy cơ mắc tiền ĐTĐ tại thời điểm đo đường
huyết lúc đói (lúc 0 phút) là 16,1% và tỉ lệ ĐTĐ
là 1,7%. Sau khi thực hiện xong NPDN glucose,
chúng tôi xác định được tỉ lệ mắc rối loạn dung
nạp glucose (tiền ĐTĐ) là 23,4% và ĐTĐ là
1,97% (n=7)(Hình 1).
Hình 1: Tỉ lệ mắc tiền đái tháo đường theo kết quả đo đường huyết lúc đói (trái) và sau thực hiện nghiệm pháp
dung nạp glucose (phải)
Bảng 1: Tần suất mắc tiền đái tháo đường và tuổi
Tuổi
Kết quả
21-30 31-40 41-50 > 50 Tổng
Dung nạp
bình thường
157
(77,3%)
85
(75,2%)
20
(71,4%)
2
(66,7%)
264
(76,1%)
Tiền đái tháo
đường
46
(22,7%)
28
(24,8%)
8
(28,6%)
1
(33,3%)
83
(23,9%)
Tổng 203
(100%)
113
(100%)
28
(100%)
3
(100%)
347
(100%)
Bảng 2: Tần suất mắc tiền đái tháo đường và giới
Giới
Kết quả
Nam Nữ Tổng
Dung nạp bình thường 52
(80%)
212
(75,2%)
264
(76,1%)
Tiền đái tháo đường 13
(20%)
70
(24,8%
83
(23,9%)
Tổng 65
(100%)
282
(100%)
347
(100%)
Có 178 đối tượng nghiên cứu có mức đường
huyết trở về bình thường ở phút thứ 90, trong
đó có 94,9% (n=169) đạt giá trị bình thường cho
đến khi thực hiện xong nghiệm pháp.
Bảng 3: Kết quả phân loại glucose máu tại thời điểm
90 phút và 120 phút của NPDN glucose
NPDN glucose phút 120
Dung nạp
bất thường
Dung nạp
bình thường Tổng
Có thể dung
nạp bất
thường
81
(90%)
95
(36%)
176
(49,7%)
Có thể dung
nạp bình
thường
9
(10%)
169
(64%)
178
(50,3%)
NPDN
glucose
phút 90
Tổng
90
(100%)
264
(100%)
354
(100%)
BÀN LUẬN
Theo hình 1, tỉ lệ mắc rối loạn glucose máu
lúc đói (tiền ĐTĐ) trong mẫu nghiên cứu tại
thời điểm 0 phút là 16,1%, và tỉ lệ ĐTĐ là 1,7%;
và tỉ lệ mắc rối loạn dung nạp glucose (tiền
ĐTĐ) là 23,4% và ĐTĐ là 1,97%. Tần suất này
tăng lên do có 24,4% (n=71) đối tượng được
đánh giá là bình thường tại thời điểm 0 phút và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 73
có kết quả ngược lại sau 120 phút thực hiện
nghiệm pháp trong khi có đến 69,8% (n=44)
trường hợp được cho là có rối loạn glucose máu
lúc đói nhưng kết quả thực hiện nghiệm pháp
dung nạp glucose lại là bình thường. Điều này
cũng phù hợp với những ghi nhận trong y văn
về đánh giá hiệu quả của nghiệm pháp dung
nạp glucose so với việc sử dụng glucose máu
lúc đói(2,3). Do đó, trong thực hành tầm soát tiền
ĐTĐ cho các đối tượng nguy cơ cao trong cộng
đồng, nghiệm pháp dung nạp glucose là rất cần
thiết.
So với báo cáo của Tạ Văn Bình(8), năm 2006,
tỉ lệ ĐTĐ là 2,6%, tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose
là 7,3%. Sự khác biệt về tỉ lệ mắc rối loạn dung
nạp glucose của tác giả trên so với nghiên cứu
của chúng tôi là đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi tập trung ở khoảng tuổi 21-52, sống
trong tình trạng kinh tế khá hơn. Năm 2007, theo
báo cáo của Sở Y Tế tỉnh Bình Định(7), tỷ lệ ĐTĐ
là 9,2%, rối loạn glucose máu lúc đói 20,3%, rối
loạn dung nạp glucose 11,1%. So với đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi là người trong độ tuổi
lao động, trong khi đối tượng của các chương
trình tầm soát là đối tượng nguy cơ cao của
ĐTĐ nên tỉ lệ mắc ĐTĐ của chúng tôi thấp hơn.
Mặt khác, NPDN glucose chỉ thực hiện cho
những trường hợp có glucose máu lúc đói chưa
rõ hoặc nghi ngờ chứ không thực hiện cho toàn
bộ đối tượng như chúng tôi. Tuy nhiên, cũng
cần chú ý là y văn có ghi nhận một lượng lớn
người không triệu chứng có giá trị glucose máu
cao sau 1 đến 2 giờ sau dung nạp nhưng lại có
giá trị glucose máu lúc đói là bình thường(2).
Năm 2009, Lê Quang Minh và cs. phát hiện
18,9% trường hợp có rối loạn dung nạp glucose
máu; 24,9% rối loạn glucose máu lúc đói(4). Như
vậy, tỉ lệ 23,4% mà chúng tôi tìm thấy trong
nghiên cứu này vào năm 2011 cũng khá tương
đồng với nghiên cứu của nhóm tác giả trên. Với
tỉ lệ rối loạn dung nạp glucose ở người trong độ
tuổi lao động cao như vậy, đi kèm với sự thay
đổi chế độ ăn, lối sống cho thấy lực lượng đóng
góp chính cho xã hội đang bị ảnh hưởng và vấn
đề tầm soát, điều chỉnh tiền ĐTĐ vẫn là việc làm
cấp thiết và mang lại nhiều ích lợi.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận
và tiến hành so sánh kết quả đo glucose máu
mao mạch tại thời điểm 90 phút và 120 phút.
Với cách làm như vậy, việc đo glucose máu tại
thời điểm 90 phút được xem như là một xét
nghiệm tầm soát mới và cần phải được so với
một xét nghiệm chuẩn là nghiệm pháp đánh giá
dung nạp glucose sau 120 phút về các thông số
như độ nhạy (sensitivity, Ss), độ đặc hiệu
(specificity, Sp), giá trị tiên đoán dương
(positive predicted value, PV+) và giá trị tiên
đoán âm (negative predicted value, PV-).
Theo bảng 3, kết quả NPDN glucose tại thời
điểm 90 phút có độ nhạy là 90%, độ đặc hiệu là
64%. giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán
âm của NPDN glucose tại phút thứ 90 lần lượt
là 46% và 94,9%. Mặc dù có độ nhạy cao nhưng
với độ đặc hiệu thấp thì kết quả NPDN glucose
tại phút thứ 90 không thể đóng vai trò là một xét
nghiệm chẩn đoán như NPDN glucose chuẩn.
Do đó, tất cả các kết quả tại thời điểm 90 phút
không thể đại diện cho thời điểm 120 phút được.
Điều này cũng đã được ghi nhận trong y văn và
nhiều nghiên cứu khác nhau.
Mặc dù vậy, khi xét riêng các trường hợp
được đánh giá là bình thường ở phút 90 trong
NPDN glucose, có 178 đối tượng nghiên cứu có
mức glucose máu trở về bình thường ở thời
điểm này, trong đó có 94,9% (n=169) đạt giá trị
bình thường cho đến khi thực hiện xong nghiệm
pháp (phút 120). Đây cũng chính là giá trị tiên
đoán âm của NPDN glucose tại phút thứ 90.
Theo Altman DG và cs.(2), giá trị tiên đoán âm
được hiểu là thương số giữa tổng số trường hợp
âm tính thật được xác nhận bằng phương pháp
chuẩn so với tổng số trường hợp được cho là âm
tính bởi kỹ thuật đang sử dụng. Một kỹ thuật có
giá trị tiên đoán âm cao nghĩa là khi xét nghiệm
cho kết quả âm tính thì kết quả thực sự ít khi là
dương tính. Ngoài ra, một kỹ thuật có giá trị tiên
đoán âm cao còn mang ý nghĩa là ít khi nào
phân loại sai một trường hợp dương tính thật sự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 74
là âm tính. Trong nghiên cứu này, với giá trị tiên
đoán âm đạt đến 94,9% cho thấy có một tỉ lệ cao
các trường hợp có giá trị bình thường ở phút 90
và duy trì đến phút 120. Do đó, vấn đề đặt ra là
liệu có thể cân nhắc đến khả năng rút ngắn thời
gian thực hiện nghiệm pháp glucose từ 120 phút
xuống còn 90 phút dành cho các đối tượng có
kết quả bình thường tại thời điểm 90 phút. Điều
này có ý nghĩa quan trọng vì nó góp phần giúp
ích cho các nhà nghiên cứu lâm sàng, dịch tễ học
và đối tượng tham gia nghiên cứu. Đối với các
nhà nghiên cứu, khi nghiệm pháp được rút
ngắn sẽ góp phần giảm chi phí về vật lực và
nhân lực. Trong nghiên cứu này, có đến 50,3%
đối tượng nghiên cứu được đánh giá bình
thường ở phút thứ 90, do đó có thể tiết kiệm đến
hơn 50% chi phí cho lần thực hiện cuối cùng
trong toàn bộ quá trình làm nghiệm pháp. Đối
với các đối tượng tham gia sẽ giảm bớt được
một lần thực hiện một kỹ thuật xâm lấn và gây
đau, đồng thời cũng gia tăng sự thoải mái và tiết
kiệm thời gian. Theo kết quả trên, có đến hơn
50% các đối tượng có thể dừng lại tại phút 90.
Việc rút ngắn thời gian thực hiện nghiệm pháp
dung nạp glucose cho những đối tượng có nồng
độ glucose máu tại thời điểm 90 phút là phù
hợp với ghi nhận của y văn về khuynh hướng
thay đổi của glucose máu sau phút thứ 90. Theo
ghi nhận của Stephen L. Aronoff(2), đường biểu
diễn nồng độ glucose máu trung bình theo thời
gian từ phút thứ 90 đến 120 trên cả hai nhóm đối
tượng là người bình thường và người ĐTĐ là
đường biểu diễn hướng xuống, nghĩa là glucose
máu giảm dần.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 347 học viên đến thực tập
tại Bộ môn sinh lý học – Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh, chúng tôi rút ra những kết
luận sau:
- Tần suất rối loạn dung nạp glucose (tiền
đái tháo đường) là 23,4%.
- 50,3% các trường hợp tham gia thực hiện
NPDN glucose có kết quả bình thường tại thời
điểm 90 phút
Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy có khả
năng rút ngắn thời gian thực nghiệm pháp dung
nạp glucose dành cho các đối tượng. Tuy nhiên,
cần có nhiều nghiên cứu quy mô hơn nữa, với
cỡ mẫu lớn hơn và tiến hành trên nhiều đối
tượng nghiên cứu khác nhau để xác định thêm
về khả năng và phạm vi rút ngắn thời gian thực
hiện nghiệm pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aronoff SL GMaR (2004). "Beyond Insulin and Glucagon".
Diabetes Spectrum p. 183 – 90
2. Douglas G, Altman JMB (1994). "Predictive values". BMJ 309
(6947).102.
3. Khatib OMN (2006). "Guidelines for the prevention,
management and care of diebetes mellitus". Cairo. 23 - 9
4. Lê Quang Minh PTHV, Nguyễn Minh Tuấn (2009),. “Nghiên
cứu rối loạn dung nạp Glucose máu và một số yếu tố liên quan ở
các dân tộc tỉnh Bắc Kạn”. Available from:
mau-va-dai-thao-duong-typ-2-tai-tinh-bac-kan.htm.
5. New Youth State Departement of Health (2008), "Children with
Diabetes – A resource guide for families and schools" p.13
6. Sacks DB (2006). "Carbohydrates". TIETZ Textbook of Clinical
Chemistry and Molecular Diagnostics. 4th ed p. 837 - 64.
7. Sở Y Tế Bình Định (2007). "Báo cáo tổng kết công tác y tế dự phòng
và phòng chống các bệnh xã hội năm 2007".
8. Tạ Văn Bình (2003). “Dịch tễ học bệnh đái tháo đường, các yếu
tố nguy cơ và các vấn đề liên quan đến quản lý bệnh đái tháo
đường”. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.
9. WHO (2006). “Guidelines for the management of hypertension
in patients with DM”. WHP.org, p5 - 11
10. Wild S GR, Green A, Sicree R, King H, (1998). "Estimates for the
year 2000 and projections for 2030. Global Prevalence of
Diabetes". Diabetes Care 27:1047 - 53.