Mục tiêu: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận bệnh lý ( lành tính hoặc ác tính) ngày càng được áp
dụng rộng rãi vì có nhiều ưu điểm: Ngoài phúc mạc, sẹo mổ nhỏ, thời gian nằm viện ngắn Chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả bước đầu áp dụng phương pháp điều trị trên tại bệnh viện Nhân Dân
115.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi đánh giá kết quả bước đầu qua 13 trường hợp phẫu
thuật cắt thận bệnh lí qua ngã nội soi sau phúc mạc bằng phương pháp nghiên cứu tiến cứu trong thời gian từ
tháng 8/2008 đến tháng 8/2010 tại bệnh viện Nhân Dân 115.
Kết quả: Có 13 bệnh nhân với 5 nữ, 8 nam, tuổi trung bình là 47,43 tuổi. Không có trừơng hợp nào là
bướu ác của thận. Tỉ lệ chuyển mổ mở 7,7%, không gặp biến chứng hay tử vong. Thời gian mổ trung bình 121
phút, máu mất trung bình 48,5ml. Đau sau mổ nhẹ là 66,7%, đau vừa 33,7%, thời gian nằm viện sau mổ là 4,1
ngày.
Kết luận: Phẫu thuật cắt thận nội soi sau phúc mạc là một phương pháp an toàn, hiệu quả, ít xâm lấn, ít
đau, sẹo mổ nhỏ và thời gian nằm viện ngắn.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận bệnh lý kết quả bước đầu tại Bệnh viện Nhân dân 115, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 190
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC CẮT THẬN BỆNH LÝ
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115
Trần Thanh Phong*, Trương Hoàng Minh*,.Trương Sĩ Vinh*, Đỗ Anh Đức*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận bệnh lý ( lành tính hoặc ác tính) ngày càng được áp
dụng rộng rãi vì có nhiều ưu điểm: Ngoài phúc mạc, sẹo mổ nhỏ, thời gian nằm viện ngắnChúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả bước đầu áp dụng phương pháp điều trị trên tại bệnh viện Nhân Dân
115.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi đánh giá kết quả bước đầu qua 13 trường hợp phẫu
thuật cắt thận bệnh lí qua ngã nội soi sau phúc mạc bằng phương pháp nghiên cứu tiến cứu trong thời gian từ
tháng 8/2008 đến tháng 8/2010 tại bệnh viện Nhân Dân 115.
Kết quả: Có 13 bệnh nhân với 5 nữ, 8 nam, tuổi trung bình là 47,43 tuổi. Không có trừơng hợp nào là
bướu ác của thận. Tỉ lệ chuyển mổ mở 7,7%, không gặp biến chứng hay tử vong. Thời gian mổ trung bình 121
phút, máu mất trung bình 48,5ml. Đau sau mổ nhẹ là 66,7%, đau vừa 33,7%, thời gian nằm viện sau mổ là 4,1
ngày.
Kết luận: Phẫu thuật cắt thận nội soi sau phúc mạc là một phương pháp an toàn, hiệu quả, ít xâm lấn, ít
đau, sẹo mổ nhỏ và thời gian nằm viện ngắn.
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc.
ABSTRACT
RETROPERITONEAL LAPAROSCOPIC NEPHRECTOMY FOR RENAL DISEASES
PRELIMINARY RESULT IN PEOPLE’S HOSPITAL 115
Tran Thanh Phong, Truong Hoang Minh, Truong Si Vinh, Do Anh Duc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 190 - 194
Purpose: Retroperitoneal laparoscopic nephrectomy has been used more and more commonly. In this paper,
we assesse the outcome of 13 initial cases of Retroperitoneal laparoscopic nephrectomy at the Department of
Urology, People’s hospital 115.
Materials and Method: Propective, we assesse the outcome of 13 initial cases of Retroperitoneal
laparoscopic nephrectomy at the Department of Urology, People’s hospital 115 from august 2008 to august 2010.
Results: 13 patients underwent retroperitoneal laparoscopic nephrectomy. Mean operating time : 121
minutes, average blood loss was about 48.5ml, post-operative pain was minor. Mean post-operative hospital stay:
4.1 days. There was no accident and the convert was 7.7%.
Conclusion: Retroperitoneal laparoscopic nephrectomy is a safe and effective procedure. This technic is
minimally invasive procedure, reduction in pain and post-operative hospital stay.
Key words: Retroperitoneal laparoscopic nephrectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật nội soi ngày càng phát triển rộng
rãi, với ưu thế sẹo mổ nhỏ, ít đau, thời gian nằm
viện ngắn nên phẫu thuật nội soi đã mang lại
nhiều lợi ích cho người bệnh. Trong Niệu khoa,
∗ Bệnh viện Nhân dân 115
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Thanh Phong ĐT: 0906664030 Email: tranthanhphong115@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 191
phẫu thuật nội soi sau phúc mạc luôn được các
bác sỹ Tiết Niệu ưa chuộng vì thao tác ngoài ổ
bụng nên tránh được các tai biến, biến chứng liên
quan đến phúc mạc, các cơ quan trong ổ
bụngTuy nhiên do khoang sau phúc mạc rất
chật hẹp nên phẫu thuật thường gặp rất nhiều
khó khăn. Năm 1992, Gaurr lần đầu tiên sử dụng
bong bóng để bóc tách tạo khoang phẫu thuật
cho vùng sau phúc mạc đã mở ra hướng phát
triển cho phẫu thuật nội soi sau phúc mạc(1).
Tại bệnh viện Nhân Dân 115, từ tháng 8 năm
2008, khoa Ngoại Niệu đã áp dụng phẫu thuật
nội soi sau phúc mạc để cắt thận bệnh lý. Chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm buớc đầu
đánh giá tính hiệu quả, độ an toàn của phương
pháp này cũng như các tai biến, biến chứng có
thể gặp trong quá trình phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân có thận bệnh lí có chỉ định
phẫu thuật cắt thận ( lành tính hoặc ác tính) vào
khoa Niệu bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng
8/2008 đến tháng 8/2010.
Những bệnh nhân này phải không có tiền sử
phẫu thuật thận cùng bên.
Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu tiến cứu.
- Đánh giá bệnh nhân trước mổ:
Nếu là thận bệnh lý lành tính: tất cả bệnh
nhân đều xạ hình thận xác định thận bệnh lý mất
chức năng hoàn toàn hoặc chức năng còn dưới
10% và thận đối bên bình thường.
Nếu là thận bệnh lý ác tính: sang thương ác
tính còn khu trú trong thận.
- Dụng cụ: chúng tôi sử dụng bộ dụng cụ
dùng cho phẫu thuật nội soi ổ bụng với ống kính
10mm, 0o.
- Vô cảm: Bệnh nhân được gây mê nội khí
quản, tư thế nằm nghiêng kinh điển như mổ mở.
Hình 1: Vị trí đặt troca
- Phẫu thuật: Troca camera đầu tiên được
thực hiện bằng cách rạch da 1,5 cm ở đầu xương
sườn XII hoặc góc sườn lưng nếu xương sườn XII
quá dài. Tách cơ thành hông lưng bằng Kelly vào
khoang sau phúc mạc. Dùng 1 ngón tay găng số 8
hoặc 1 bao cao su vô khuẩn cho vào vùng sau
phúc mạc và bơm khí với thể tích từ 300-500 ml
để tạo khoang phẫu thuật vùng sau phúc mạc.
Đặt troca 10 mm và có thể bóc tách thêm khoang
sau phúc mạc bằng ống kính nội soi. Troca thứ
hai 10 mm đặt trên đường nách giữa, nằm giữa
mào chậu và bờ sườn, troca thứ ba 5 mm đặt trên
đường nách trước về phía bụng. Trong trường
hợp khó khăn, có thể đặt thêm troca thứ tư tùy
từng truờng hợp. Duy trì khoang sau phúc mạc
bằng CO2 với áp lực 12 mmHg. Xác định phúc
mạc và cơ Psoas để tìm niệu quản.
Nếu là thận bệnh lý ác tính, cắt thận nội soi
theo các nguyên tắc cắt bướu thận trong mổ
mở(3): kẹp cắt cuống thận từ đầu ở ngoài bao
Gerota, cắt niệu quản, tách quanh thận ở ngoài
bao này để lấy hết lớp mỡ quanh thận.
Xử lý cuống thận: sau khi bóc tách rõ ràng
động mạch thận, chúng tôi kẹp động mạch thận
bằng 1 hemolock và 2 metal clip, cắt giữa 2 metal
clip ( phần động mạch giữ lại gồm 1 hemolock vá
1 metal clip).
Sau khi kẹp và cắt động mạch thận, chúng tôi
tiếp tục bộc lộ tĩnh mạch thận, kẹp và cắt tĩnh
mạch thận cũng với 1 hemolock và 2 metal clip.
Dùng túi nhựa endosac lấy thận ra ngoài để
tránh sự rơi vãi tế bào ung thư.
Nếu là thận bệnh lí lành tính, ta có thể bộc lộ
niệu quản trước, cắt niệu quản, tách theo niệu
quản lên bể thận xác định rốn thận, kẹp và cắt
động mạch, tĩnh mạch thận. Bóc tách quanh thận
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 192
và lấy thận ra ngoài bằng endosac. Bệnh phẩm
đựợc lấy ra qua lỗ đặt troca thứ nhất có mở rộng
hoặc không (bệnh phẩm có thể đựợc cắt nhỏ ra
trong endosac để làm giảm vết sẹo nơi lấy bệnh
phẩm ra ngoài).
Hình 2: Thận mất chức năng được lấy ra qua lỗ troca
thứ nhất
Đặt dẫn lưu hố mổ qua 1 lỗ đặt troca
Ghi nhận các thông số về số troca được sử
dụng, thời gian phẫu thuật, lượng máu mất, tai
biến, biến chứng lúc mổ và hậu phẫu, đau sau mổ,
thời gian trung tiện và ăn uống trở lại, thời gian rút
ống dẫn lưu và số ngày nằm viện sau mổ.
Số liệu đuợc thống kê bằng phần mềm SPSS
12.5.
KẾT QUẢ
Từ tháng 8/2008 đến tháng 8/2010, chúng tôi
đã tiến hành phẫu thuật cho 13 trường hợp cắt
thận qua ngã nội soi sau phúc mạc với kết quả
như sau:
Tuổi
Tuổi trung bình: 47,43 ± 14,73 (nhỏ nhất 34
tuổi, lớn nhất 72 tuổi).
Giới
Trong 13 trường hợp, có 5 trường hợp (38,5%)
là nữ, 8 trường hợp (61,5%) là nam.
Thận bệnh lí
Cắt thận trái 9 trường hợp ( 69,2%), cắt thận
phải 4 trường hợp (30,8%).
Đặt điểm lâm sàng trước mổ
Đau hông lưng kèm tăng huyết áp ở người
trẻ (34 tuổi), siêu âm phát hiện thận teo 1
trường hợp (7,7%). Đau hông lưng kèm sốt 3
trường hợp (23%). Đau hông lưng đơn thuần 9
trường hợp (69,3%).
Đặc điểm cận lâm sàng trước mổ
- Tất cả 13 bệnh nhân đều được siêu âm
trước mổ, có 1 trường hợp (7,7%) thận teo, có 3
trường hợp (23%) thận teo và chướng nước, có 9
trường hợp (69,3%) thận chướng nước lớn độ III
(có 1 trường hợp kèm bướu tuyến thượng thận
cùng bên).
- Tất cả 13 trường hợp đều có BUN, Creatinin
trong giới hạn bình thường nên được chụp KUB
và UIV với kết quả: thận không phân tiết, có sỏi
thận hoặc sỏi niệu quản cùng bên: 10 trường hợp
(76,9%). Thận phân tiết rất kém hoặc không phân
tiết, không kèm bệnh lí sỏi niệu cùng bên : 3
trường hợp (23,1%).
- Xạ hình thận được thực hiện ở tất cả 13 bệnh
nhân trước mổ, kết quả có 9 trường hợp (69%)
thận mất chức năng hoàn toàn, có 4 trường hợp
(31%) thận bệnh lí còn chức năng dưới 10%.
Có 2 trường hợp được chụp cắt lớp điện toán
bụng có cản quang: 1 trường hợp kèm bướu tuyến
thượng thận cùng bên, 1 trường hợp thận chướng
nước khổng lồ choáng hết phần bụng dưới.
Tất cả 13 trường hợp đều được chẩn đoán
trước mổ là thận mất chức năng do bệnh lí lành
tính, không có trường hợp nào là thận bệnh lí
ác tính.
Kết quả phẫu thuật
Với 13 trường hợp phẫu thuật, chúng tôi phải
chuyển mổ mở 1 trường hợp vì thận chướng
nước khổng lồ chiếm hết vùng sau phúc mạc và
vùng bụng dưới, chúng tôi gặp khó khăn trong
việc tạo khoang sau phúc mạc và bộc lộ do thận
viêm dính với lớp mỡ quanh thận,phúc mạc và
các cơ quan lân cận. Tỉ lệ chuyển mổ mở là 7,7%.
Còn lại 12 trường hợp chúng tôi phẫu thuật
cắt thận nội soi sau phúc mạc thành công, trong
đó có 1 trường hợp cắt thận trái mất chức năng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 193
do hẹp niệu quản trái và cắt bướu tuyến thượng
thận trái cùng lúc. Các thông số phẫu thuật sẽ
được tính theo tỉ lệ phần trăm của 12 trường hợp
phẫu thuật nội soi thành công này.
- Số lượng troca sử dụng: Có 9 trường hợp
chúng tôi chỉ sử dụng 3 troca (75%). Còn lại 3
trường hợp chúng tôi sử dụng 4 troca (25%). Tất
cả bệnh phẩm được lấy ra qua lỗ troca thứ nhất
(có mở rộng thêm hoặc không).
- Thời gian phẫu thuật: thời gian phẫu thuật
trung bình là 121,41 ± 45,23 phút (ngắn nhất 90
phút, dài nhất 180 phút).
- Lượng máu mất: Máu mất trung bình 48,55
± 22,41 ml (ít nhất 25ml, nhiều nhất 150 ml).
Không ghi nhận tai biến nào trong lúc mổ
cũng như không có trường hợp nào tử vong.
Hậu phẫu
- Đau hậu phẫu: sau mổ, có 8 trường hợp đau
nhẹ (66,7%), đau trung bình phải sử dụng thêm
thuốc giảm đau là 4 trường hợp (33,3%), không
có trường hợp nào đau nhiều sau mổ nội soi.
- Thời gian trung bình để bệnh nhân trung
tiện và ăn uống được là 1,23 ± 0,76 ngày (1 – 2
ngày).
- Thời gian rút ống dẫn lưu hố thận trung
bình là 1,52 ± 0,74 ngày (ngắn nhất 1 ngày, dài
nhất 3 ngày).
- Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là
4,12 ± 1,54 ngày (ngắn nhất là 3 ngày, dài nhất là
6 ngày).
- Tại thời điểm xuất viện, không ghi nhận tai
biến, biến chứng hậu phẫu nào.
- Bệnh nhân tái khám sau 1 tháng: tất cả đều
khỏe hơn, vết mổ lành tốt, hết đau lưng, chức
năng thận đối bên tốt.
- Kết quả giải phẫu bệnh: 1 trường hợp cầu
thận teo, ống thận hyaline hóa, mô kẻ xơ hóa (
7,7%), tất cả trường hợp còn lại có giải phẫu bệnh
là thận chướng nước, xơ hóa, viêm mạn
BÀN LUẬN
Thận bệnh lí khi có chỉ định cắt thận để điều
trị, chúng ta có thể cắt thận qua mổ mở, qua nội
soi trong phúc mạc hay nội soi sau phúc mạc.
Mặc dù ngã sau phúc mạc hơi khó khăn do
khoang sau phúc mạc chật hẹp nhưng chúng tỏ
ra nhiều lợi điểm: không vào ổ bụng nên tránh
được các biến chứng tổn thương các cơ quan
trong ổ bụng, tắt ruột do dính về sau, dịch tiết,
nước tiểu, dịch dẫn lưu hay tế bào ung thư không
đi vào ổ bụngCó rất nhiều cách đặt troca trong
phẫu thuật cắt thận nội soi sau phúc mạc, sự lựa
chọn tùy thuộc vào thói quen và kinh nghiệm của
phẫu thuật viên. Cũng giống như Trần Ngọc
Sinh(4), Đào Quang Oánh(1), chúng tôi chọn cách
đặt theo Gaurr(1), thường sử dụng 3 troca trước,
nếu cuộc mổ khó khăn có thể sử dụng thêm troca
thứ 4. Trong loạt nghiên cứu này, có 9 trường
hợp (75%) chúng tôi chỉ sử dụng 3 troca, có 3
trường hợp (25%) sử dụng 4 troca. Đối với những
thận chướng nước lớn, thường chúng tôi chọc hút
nước làm xẹp thận, tạo ra khoang phẫu thuật
rộng rãi hơn.
Trong nghiên cứu chúng tôi, không có trường
hợp nào chẩn đoán trước mổ là bướu ác của thận,
một phần vì trong thời gian này chúng tôi gặp
những bướu thận quá khả năng phẫu thuật nội
soi hoặc bướu có thể phẫu thuật nội soi nhưng
bệnh lý kèm theo không cho phép làm nội soi
hoặc do mới bắt đầu và chúng tôi chưa có nhiều
kinh nghiệm nên chúng tôi còn dè dặt trong việc
chỉ định, cũng có một số bệnh nhân chọn mổ mở,
vì vậy chúng tôi bàn luận sau đây cho một phẫu
thuật cắt thận lành tính.
Có nhiều cách tiếp cận và cắt thận, dù là cách
nào thì cơ psoas và niệu quản luôn là mốc giải
phẫu quan trong giúp xác định thận và rốn thận.
Chúng ta có thể vào thẳng rốn thận rồi bóc tách
quanh thận và niệu quản hoặc bóc tách quanh
thận truớc rồi cắt rốn thận và niệu quản. Trong
nghiên cứu chúng tôi thuờng bộc lộ niệu quản
trước, cắt niệu quản, sau đó đi theo niệu quản
vào rốn thận, cắt cuống thận, sau cùng là bóc tách
lớp mỡ quanh thận. Phương pháp này rất thuận
lợi trong những trường hợp thận viêm dính gây
khó khăn trong việc xác định và tiếp cận rốn
thận, hoặc những trường hợp thận teo nhỏ gây
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 194
khó khăn trong việc xác định thận và rốn thận.
Trong 12 trường hợp phẫu thuật, chúng tôi xác
định và tiếp cận thận, rốn thận rất dể dàng,
không có trường hợp nào gặp tai biến hay tử
vong trong và sau mổ. Chúng tôi chuyển mổ mở
1 trường hợp vì thận chướng nước rất lớn do hẹp
niệu quản chậu, thận chiếm gần hết phần bụng
dưới. Sau khi chọc hút nuớc, phần chủ mô thận
viêm dính với mô quanh thận, phúc mạc, ruột
nên gặp khó khăn trong bộc lộ thận, chúng tôi
chuyển mổ mở để cắt thận và bệnh nhân hậu
phẫu ổn định. Có một trường hợp cùng lúc cắt
thận mất chức năng do hẹp niệu quản và bướu
tuyên thượng thận cùng bên, phẫu thuật thuận
lợi.
Thận sau khi được cắt, chúng tôi cho vào túi
nhựa và cắt nhỏ thận ra rồi lấy từng mảnh nhỏ ra
qua lỗ troca thứ nhất rất dể dàng nên việc mở
rộng thêm lỗ troca là rất ít, nếu có chỉ khoảng 2
cm. Vì vậy nếu so sánh với sẹo mổ mở thì đây là
sự chênh lệch rất lớn, và vì thế hậu phẫu cũng ít
đau hơn, chúng tôi có 66,7 % đau hậu phẫu mức
độ nhẹ, 33,3% đau mức độ trung bình. Kết quả
cũng phù hợp với những nghiên cứu khác(1 ,2).
Thời gian mổ trung bình của chúng tôi
khoảng 2 giờ, nếu so sánh với các tác giả khác thì
thời gian mổ có ngắn hơn. Tuy nhiên vì do mới
bắt đầu và chưa có nhiều kinh nghiệm nên chúng
tôi có xu hướng chỉ chọn những trường hợp đơn
giản hoặc những bệnh lí lành tính nên phẫu thuật
có vẻ thuận lợi hơn và vì thế thời gian mổ cũng
ngắn hơn.
Bảng so sánh kết quả
Tác giả
Cỡ mẫu (n) Số troca Thời gian mổ (phút)
Lượng máu
mất (ml)
Nằm viện
sau mổ
(ngày)
Chuyển mổ
mở (%)
Biến chứng
(%)
Đào Quang Oánh(1)
(2008) 79 3-4 127 43 4,6 6,3 1,27
Rasswieler(2) (1998) 65 4 160 6,1 4,6 9
Loạt này (2010) 13 3-4 121 48 4,1 7,7 0
Vì số lượng bệnh nhân còn ít nên có thể chưa
phản ánh đầy đủ những hạn chế của phẫu thuật,
tuy nhiên khi chúng tôi đã có kinh nghiệmvà kỹ
năng được hoàn thiện hơn, chúng tôi tin rằng sẽ
hạn chế những yếu điểm của phẫu thuật này.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt thận qua ngã nội soi sau
phúc mạc là một phương pháp khả thi và an
toàn. Phương pháp điều trị này ít xâm lấn, sẹo
mổ nhỏ và thẩm mỹ, ít đau, thời gian nằm viện
ngắn nên mang đến cho người nhiều lợi ích.
Việc áp dụng phương pháp điều trị này tạo
điều kiện để thực hiện các kỷ thuật khác phức
tạp và khó khăn hơn cho vùng sau phúc mạc
như cắt thận để ghép, cắt tiền liệt tuyến tận gốc,
cắt thận- niệu quản tận gốc
Vì cỡ mẫu còn ít nên cần số lượng lớn hơn
trong thời gian tới để có đánh giá chính xác về
phương pháp điều trị này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Quang Oánh ( 2008): Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt
thận bệnh lý lành tính. In: Y học Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Vol.12 (1). pp. 257-261.
2. Gaurr D.D (1994): Laparoscopic condom dissection: new
technique of retroperitoneoscopy. Jol. Endourol Vol.8. pp.149-
151.
3. Rassweiler J. (1998). Fornara P., Weber M : Laparoscopic
nephrectomy: The experience of the laparoscopy group of the
German Urologic Association. In: Jol. Urol. Vol.160. pp. 18-21.
4. Robson C. J (1963): Radical nephrectomy for renal cell
carcinoma. Jol Urol. pp. 89-37
5. Trần Ngọc Sinh (2010): Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy
thận để ghép tại BVCR: phương pháp đơn giản và an toàn. In:
Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí
Minh Vol.14 (3). pp. 72-80.