Hệ thông tin địa lý (HTTĐL) là một hệ thống thông tin 
có chức năng nhập, tổ chức dữ liệu không gian để 
phân tích và tổng hợp thành các thông tin trợ giúp việc 
ra quyết định của hầu hết các lĩnh vực hoạt động của 
xã hội. Công nghệ này ra đời từ đầu những năm 60 của 
thế kỷ XX, xuất phát từ các nhu cầu xử lý thông tin đơn 
giản hơn hiện nay rất nhiều. Ngày nay, dữ liệu địa lý 
chiếm tới 70-80% các dữ liệu sử dụng trong các hoạt 
động của xã hội loài người là các hoạt động có tính 
phức hợp (complexe) cao. Các hoạt động này đồng 
thời diễn ra trên không gian tự nhiên và không gian xã 
hội. Ở Việt Nam, các phương pháp pháp thống kê đã 
được sử dụng từ lâu và khá phổ biến trong các nghiên 
cứu xã hội học. Tuy nhiên, phần lớn các ứng dụng này 
lại chưa tính đếm đến quy mô không gian (dimension 
spatiale) và gặp rất nhiều hạn chế khi phải nghiên cứu 
quan hệ của các yếu tố xã hội nhân văn trong không 
gian. Trong khi đó, mọi hiện tượng, quá trình xã hội đều 
diễn ra trong một khung cảnh địa lý nhất định
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
24 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hệ thông tin địa lý và khả năng ứng dụng vào khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam: hiện trạng và các thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hệ thông tin địa lý và khả năng ứng dụng vào khoa học xã hội 
nhân văn ở Việt Nam: hiện trạng và các thách thức
PHẠM	Văn	Cự	-	ĐH	khoa	học	tự	nhiên,	ĐH	Quốc	gia	Hà	Nội
Hệ thông tin địa lý (HTTĐL) là một hệ thống thông tin 
có chức năng nhập, tổ chức dữ liệu không gian để 
phân tích và tổng hợp thành các thông tin trợ giúp việc 
ra quyết định của hầu hết các lĩnh vực hoạt động của 
xã hội. Công nghệ này ra đời từ đầu những năm 60 của 
thế kỷ XX, xuất phát từ các nhu cầu xử lý thông tin đơn 
giản hơn hiện nay rất nhiều. Ngày nay, dữ liệu địa lý 
chiếm tới 70-80% các dữ liệu sử dụng trong các hoạt 
động của xã hội loài người là các hoạt động có tính 
phức hợp (complexe) cao. Các hoạt động này đồng 
thời diễn ra trên không gian tự nhiên và không gian xã 
hội. Ở Việt Nam, các phương pháp pháp thống kê đã 
được sử dụng từ lâu và khá phổ biến trong các nghiên 
cứu xã hội học. Tuy nhiên, phần lớn các ứng dụng này 
lại chưa tính đếm đến quy mô không gian (dimension 
spatiale) và gặp rất nhiều hạn chế khi phải nghiên cứu 
quan hệ của các yếu tố xã hội nhân văn trong không 
gian. Trong khi đó, mọi hiện tượng, quá trình xã hội đều 
diễn ra trong một khung cảnh địa lý nhất định.
Một số vấn đề cơ bản về hệ thông tin 
địa lý (HTTĐL)
HTTĐL được hiểu theo nhiều các khác nhau, tuy nhiên, 
đa số đã chấp nhập HTTĐL như một hệ thống có 
4 hợp phần: Cơ sở dữ liệu, Cơ sở tri thức, Phần cứng 
và Phần mềm (Bourrough, 1986, Phạm Văn Cự, 1996, 
Phạm Văn Cự, 2000). Trong báo cáo này chúng tôi sẽ 
trình bày khái lược về từng hợp phần của HTTĐL với hy 
vọng sẽ cung cấp cho các chuyên gia y tế một số khái 
niệm cơ bản về HTTĐL, qua đó tìm tiếng nói chung 
giữa các chuyên gia công nghệ và các chuyên gia y tế 
cho các ứng dụng của HTTĐL.
Về dữ liệu của HTTĐL
Hiện nay, trên thế giới người ta đã chấp nhận một 
cách rộng rãi vai trò của HTTĐL trong trợ giúp quyết 
định do các chức năng hiệu quả của nó trong xử lý 
các thông tin không gian. Khái niệm thông tin, dữ liệu 
không gian dùng để chỉ mọi thông tin, dữ liệu gắn với 
các đối tượng, hiện tượng và hoạt động của xã hội 
trên Trái Đất và trong không gian hiểu theo nghĩa rộng 
(Bourough, 1986). Nếu như lúc mới ra đời, các thông 
tin đầu vào của HTTĐL thuần túy là thông tin bản đồ thì 
ngày nay mọi thông tin gắn với tọa độ địa lý hoặc tọa 
độ của lưới chiếu bản đồ hoặc gắn với các đối tượng 
đã có toạ độ đều có thể là đầu vào của hệ thống. 
Các đối tượng có tọa độ có thể là một điểm (ví dụ: điểm 
lấy mẫu ngoài thực địa, nguồn ô nhiễm, điểm dân cư, 
địa điểm thải rác của một bệnh viện v.v.), có thể là một 
tuyến (ví dụ: trục giao thông, kênh dẫn nước, đường 
ống dẫn nước sinh hoạt, mạng lưới sông suối v.v.), có 
thể là một vùng (ví dụ: một đơn vị hành chính cấp thôn 
bản, xã, huyện, tỉnh thành, quốc gia, khu vực, một khu 
dân cư, một khu chế xuất v.v.). Các đối tượng có tọa độ 
thường được biểu diễn trên máy tính dưới hai dạng đồ 
họa cơ bản: dạng vector (điểm, đường, vùng) và dạng 
các điểm ảnh (raster), trong đó vector là dạng dữ liệu 
thường hay dùng hơn cả, đặc biệt là để thể hiện các 
dữ liệu bản đồ.
Các dữ liệu đồ họa này bao giờ cũng được mô tả bởi 
một hoặc nhiều thuộc tính. Các dữ liệu thuộc tính 
luôn được gắn với dữ liệu đồ hoạ thông qua tọa độ 
của dữ liệu đồ họa và vì vậy nó đảm bảo chỉ mô tả 
đối tượng liên quan. Các dữ liệu thuộc tính thường 
được tổ chức thành các bảng có cấu trúc quan hệ 
(Relational Structure) và có thể có khuôn dạng ký tự 
(Character), không dạng số (Numeric) và khuôn dạng 
chữ số (Alphanumeric). Trong nhiều trường hợp, đối 
tượng đồ họa cũng có thể được mô tả bởi các dữ liệu 
đa phương tiện (Multimedia) như hình ảnh, Video hoặc 
âm thanh. Ví dụ, trong lĩnh vực xã hội học, dữ liệu thuộc 
tính có thể là thông tin về tỷ lệ hộ nghèo tính theo xã, số 
lượng người được hưởng nước sạch tính theo xã, theo 
huyện hoặc theo quốc gia, có thể là thu nhập tính theo 
đầu người trên một huyện, có thể là tỷ lệ dân cư bị tác 
động của thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ đô thị 
hóa v.v. và v.v… Ngoài cấu trúc quan hệ ra, các dữ liệu 
có thể được lưu trữ theo một số cấu trúc khác như cấu 
trúc mạng (Network Structure) và gần đây là cấu trúc 
đối tượng (Object Oriented Structure). Mỗi cấu trúc có 
những lợi thế riêng và phù hợp với các ứng dụng khác 
nhau. Tuy nhiên, các dữ liệu vector đều được quản lý 
bằng quan hệ của chúng trong không gian (Topology) 
thông qua toạ độ (Bourrough. P. A., 1986). 
Về cơ bản có hai loại dữ liệu: Dữ liệu nền và các dữ liệu 
chuyên ngành. Dữ liệu nền được hiểu một cách rộng 
rãi là các dữ liệu về địa hình, hình thể hoặc các đơn vị 
hành chính của khu vực nghiên cứu. Dữ liệu chuyên đề 
là các dữ liệu do các chuyên ngành cung cấp về điều 
kiện tự nhiên, thống kê về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, 
88 Khóa học Tam Đảo 2008
thương mại, hạ tầng cơ sở v.v. của khu vực nghiên cứu. 
Cả dữ liệu nền và dữ liệu chuyên đề đều có thể ở dạng 
đồ hoạ và dạng thuộc tính. Hình 1 minh họa cho quan 
hệ giữa dữ liệu đồ họa với các thuộc tính trên không 
gian có toạ độ.
Về cơ sở dữ liệu của (CSDL) HTTĐL
Cũng như trong bất cứ hệ thông tin nào khác, (CSDL) 
của HTTĐL là tập hợp một cách có cấu trúc, có hệ 
thống các dữ liệu (như đã mô tả ở trên) nhằm một 
mục đích trợ giúp quyết định được định sẵn (Parent, D. 
and R. Church, 1988). Lấy ví dụ, trong các ứng dụng 
của ngành y tế, CSDL mà chúng ta xây dựng phải 
phải nhằm vào trợ giúp các quyết định của ngành y 
tế. Các quyết định mà ngành y tế đưa ra luôn gắn với 
hàng loạt các vấn đề khác của xã hội; hoặc nó chịu 
ảnh hưởng của các vấn đề này hoặc nó sẽ ảnh hưởng 
đến các vấn đề này hoặc có quan hệ ảnh qua lại giữa 
quyết định của ngành với các vấn đề này. Vì lý do như 
thế mà cơ sở dữ liệu của một HTTĐL sử dụng trong 
từng ngành chỉ chứa các thông tin mà ngành đó quan 
tâm trong mối liên quan với một số lĩnh vực khác. Các 
mối liên quan đó đã phải được định nghĩa trước trong 
giai đoạn thiết kế. Việc định nghĩa các mối liên hệ như 
thế nào sẽ được trình bày sau đây, ở phần Cơ sở tri 
thức của hệ thống.
Các nguồn dữ liệu
Dữ liệu sử dụng trong các HTTĐL, như đã nêu ở phần 
trên, thuộc hai nhóm chính: dữ liệu nền và dữ liệu 
chuyên đề. Các dữ liệu nền địa hình thuộc quyền quản 
lý và cung cấp của Tổng cục địa chính, các dữ liệu về 
ranh giới hành chính thuộc quyền quản lý của Ban Tổ 
chức chính phủ hoặc Ban Tổ chức chính quyền các 
tỉnh. Các dữ liệu chuyên đề do các cơ quan chuyên 
môn cung cấp. Có những thông tin được giải đoán từ 
ảnh máy bay, ảnh vệ tinh cũng thường là một nguồn 
dữ liệu cho HTTĐL. Các loại dữ liệu nói trên sẽ được 
nhập vào CSDL theo nhiều cách khác nhau với các 
khuôn dạng như đã mô tả ở phần trên. (xem Hình 1)
Các chức năng của HTTĐL và khả năng ứng dụng 
trong y tế
Như đã được thừa nhận rộng rãi (Trích dẫn), HTTĐL có 
chức chức năng sau: (1)Nhập và quản lý các dữ liệu, 
(2)Tra cứu dữ liệu, (3)Phân tích và Tích hợp dữ liệu, 
(4)Hiển thị và xuất dữ liệu.
- Chức năng nhập và quản lý dữ liêu: Đối với dữ liệu 
đồ họa, có thể nhập bằng bàn số. Đó là phương pháp 
dùng con chuột để vẽ lại các đối tượng đồ họa trên 
mặt một thiết bị được gọi bàn số. Tuy nhiên, trong vài 
năm gần đây người ta đã chuyển sang nhập dữ liệu 
bằng phương pháp vector hóa. Đó là, sử dụng các 
chương trình chuyển đối tượng đồ hoạ được quét bằng 
máy quét (scanner) dưới dạng ảnh (raster) thành các 
vector. Đối với các dữ liệu thống kê, con đường nhập 
duy nhất là sử dụng chức năng của phần mềm HTTĐL 
hoặc sử dụng một số phần mềm quản trị CSDL như 
Excel, DBase, Lotus v.v. để nhập dữ liệu. Các dữ liệu, 
một khi đã được nhập, sẽ được hệ thống quản lý theo 
một trong các cấu trúc như đã nêu ở phần trên và dự 
vào hai yếu tố quan trọng là toạ độ và quan hệ không 
gian của dữ liệu. Thông thường, các dữ liệu được tổ 
chức thành nhiều lớp, mỗi lớp lại được quản lý bởi toạ 
độ, quan hệ không gian và được mô tả bởi một bảng 
thuộc tính. Nhờ có sự quản lý như vậy mà hệ thống mới 
hoạt đảm đương được các chức năng phân tích và tích 
hợp thông tin. 
Hình 1: Mô hình một lớp dữ liệu trong HTTĐL
Hình 1: Mô hình mӝt lӟp dӳ liӋu trong HTTĈL
Các chͱc năng cͯa HTTĈL và kh̫ năng ͱng dͭng trong y t͇
Nhѭ ÿã ÿѭӧc thӯa nhұn rӝng rãi (Trích dүn), HTTĈL có chӭc chӭc năng sau: (1)Nhұp và quҧn lý 
các dӳ liӋu, (2)Tra cӭu dӳ liӋu, (3)Phân tích và Tích hӧp dӳ liӋu, (4)HiӇn thӏ và xuҩt dӳ liӋu.
9 Chͱc năng nh̵p và qu̫n lý dͷ liêu: Ĉӕi vӟi dӳ liӋu ÿӗ hoҥ, có thӇ nhұp bҵng bàn sӕ. Ĉó là 
phѭѫng pháp dùng con chuӝt ÿӇ vӁ lҥi các ÿӕi tѭӧng ÿӗ hoҥ trên mһt mӝt thiӃt bӏ ÿѭӧc gӑi
bàn sӕ. Tuy nhiên, trong vài năm gҫn ÿây ngѭӡi ta ÿã chuyӇn sang nhұp dӳ liӋu bҵng 
phѭѫng pháp vector hoá. Ĉó là, sӱ dөng các chѭѫng trình chuyӇn ÿӕi tѭӧng ÿӗ hoҥ ÿѭӧc
quét bҵng máy quét (scanner) dѭӟi dҥng ҧnh (raster) thành các vector. Ĉӕi vӟi các dӳ liӋu
thӕng kê, con ÿѭӡng nhұp duy nhҩt là sӱ dөng chӭc năng cӫa phҫn mӅm HTTĈL hoһc sӱ
dөng mӝt sӕ phҫn mӅm quҧn trӏ CSDL nhѭ Excel, DBase, Lotus v.v. ÿӇ nhұp dӳ liӋu. Các 
dӳ liӋu, mӝt khi ÿã ÿѭӧc nhұp, sӁ ÿѭӧc hӋ thӕng quҧn lý theo mӝt trong các cҩu trúc nhѭ ÿã
nêu ӣ phҫn trên và dӵ vào hai yӃu tӕ quan trӑng là toҥ ÿӝ và quan hӋ không gian cӫa dӳ liӋu. 
Thông thѭӡng, các dӳ liӋu ÿѭӧc tә chӭc thành nhiӅu lӟp, mӛi lӟp lҥi ÿѭӧc quҧn lý bӣi toҥ
ÿӝ, quan hӋ không gian và ÿѭӧc mô tҧ bӣi mӝt bҧng thuӝc tính. Nhӡ có sӵ quҧn lý nhѭ vұy
mà hӋ thӕng mӟi hoҥt ÿҧm ÿѭѫng ÿѭӧc các chӭc năng phân tích và tích hӧp thông tin. 
9 Chͱc năng tra cͱu: Ĉây là mӝt chӭc năng rҩt hay ÿѭӧc sӱ dөng và thѭӡng là ӣ giai ÿoҥn
khӣi ÿҫu mӛi khi chúng ta vào hӋ thӕng. Các câu hӓi ÿѫn giҧn nhҩt nhѭ: có gì, ӣ ÿâu, có bao 
nhiêu v.v... lҥi có thӇ trӣ nên quan trӑng trong trѭӡng hӧp cҫn có báo cáo tәng kiӇm kê vӅ
mӝt vҩn ÿӅ gì ÿó. Trong thí dө nêu trong hình 1, hӋ thӕng sӁ giúp chúng lҩy thông tin tӯ các 
bҧng ra ÿӇ trҧ lӡi nhóm câu hӓi này. Trong tra cӭu thông tin cӫa HTTĈL ngѭӡi rҩt hay dùng 
mӝt loҥi ngôn ngӳ tra cӭu dӵa vào cҩu trúc dӳ liӋu - SQL (Structure Query Language) kӃt
hӧp vӟi viӋc xác ÿӏnh vӏ trí trong không gian cӫa các ÿӕi tѭӧng cҫn tra cӭu. Ӣ mӭc ÿӝ này, 
các câu hӓi có thӇ phӭc tҥp hѫn rҩt nhiӅu vì nó ÿòi hӓi câu trҧ lӡi phҧi ÿáp ӭng ÿӗng thӡi
mӝt sӕ tiêu chí. Chҷng hҥn, hãy chӍ ra các xã có tӹ lӋ hӝ du canh dѭӟi mӭc quy ÿӏnh tҥi thӡi
ÿiӇm Y và có mұt ÿӝ dân sӕ X nào ÿó ÿӇ tìm tìm hiӇu xem có phҧi tҥi sӭc ép dân sӕ nên hoҥt
ÿӝng du canh vүn tiӃp diӉn hay không hay vì lý do gì khác v.v. Mӝt thí dө khác ÿiӇn hình 
cho viӋc kӃt hӧp các ÿiӅu kiӋn mô tҧ bҧng thuӝc tính và quan hӋ không gian là viӋc tra cӭu
Y
X
9 Xã B ӣ ÿâu? 
9 Xã B có các ÿһc ÿiӇm thӕng kê 
vӅ dân tӝc hӑc nhѭ thӃ nào? 
9 Tѭѫng tӵ nhѭ vұy vӟi các xã 
khác? 
89Hệ thống thông tin địa lý
- Chức năng tra cứu: Đây là một chức năng rất hay 
được sử dụng và thường là ở giai đoạn khởi đầu mỗi 
khi chúng ta vào hệ thống. Các câu hỏi đơn giản nhất 
như: có gì, ở đâu, có bao nhiêu v.v... lại có thể trở nên 
quan trọng trong trường hợp cần có báo cáo tổng kiểm 
kê về một vấn đề gì đó. Trong ví dụ nêu trong hình 1, 
hệ thống sẽ giúp chúng lấy thông tin từ các bảng ra để 
trả lời nhóm câu hỏi này. Trong tra cứu thông tin của 
HTTĐL người ta rất hay dùng một loại ngôn ngữ tra 
cứu dựa vào cấu trúc dữ liệu - SQL (Structure Query 
Language) kết hợp với việc xác định vị trí trong không 
gian của các đối tượng cần tra cứu. Ở mức độ này, các 
câu hỏi có thể phức tạp hơn rất nhiều vì nó đòi hỏi câu 
trả lời phải đáp ứng đồng thời một số tiêu chí. Chẳng 
hạn, hãy chỉ ra các xã có tỷ lệ hộ du canh dưới mức 
quy định tại thời điểm Y và có mật độ dân số X nào đó 
để tìm tìm hiểu xem có phải tại sức ép dân số nên hoạt 
động du canh vẫn tiếp diễn hay không hay vì lý do gì 
khác v.v. Một ví dụ khác điển hình cho việc kết hợp 
các điều kiện mô tả bảng thuộc tính và quan hệ không 
gian là việc tra cứu con đường ngắn nhất để đến một 
trạm y tế nhằm đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ của 
các hộ dân miền núi. Trong các ví dụ trên, có thể thấy, 
HTTĐL có thể thực hiện việc tra cứu dựa vào các dữ 
liệu thuộc tính hiện có trên CSDL trong không gian và 
cả trong thời gian.
- Chức năng phân tích và tích hợp thông tin: Đây là 
chức năng quan trọng nhất của HTTĐL và làm cho nó 
khác với các Hệ thành lập bản đồ tự động, nghĩa là 
chuyên về sử dụng CSDL không gian để xây dựng các 
bản đồ trên máy tính. Chức năng này giúp chúng ta 
tìm hiểu, đánh giá mối quan hệ của các đối tượng, hiện 
tượng, quá trình thông qua các công thức tính toán số 
học (+, -, x, /, , ≥, ≤ v.v…), các hàm lượng giác 
và đặc biệt là các hàm lôgic như : Faulse, True (Có, 
Không), If, Then, Else (nghĩa là: Nếu thỏa mãn điều 
kiện đặt ra thì.., Nếu không thoả mãn điều kiện đặt ra 
thì …) và các hàm Lô gic nhị phân (Boolean) để đánh 
giá quan hệ giữa các đối tượng (AND, OR, NOT, XOR). 
Đặc biệt, HTTĐL sẽ giúp chúng ta thể hiện tư duy của 
nhà chuyên môn trong mô phỏng các diễn biến có thể 
có trong tự nhiên và trong xã hội trên nền CSDL đã xây 
dựng. Các mô phỏng này sẽ được thể hiện dưới dạng 
các kịch bản (scenario) và rất hay được sử dụng trong 
dự báo diễn biến các hiện tượng, quá trình và đặc biệt 
là trong công tác quy hoạch. Như đã trình bày ở phần 
trên, các dữ liệu không gian được cấu trúc thành nhiều 
lớp trong CSDL và mỗi lớp dùng để mô tả một bộ 
phận của thực tế khu vực ta quan tâm. Trong mỗi lớp 
chúng ta lại có các thuộc tính khác nhau. Chức năng 
phân tích và tích hợp vì vậy thường được tiến hành ở 
hai mức:
- Mức bên trong từng lớp: tại mức này, người ta xét 
quan hệ giữa các thuộc tính của chính lớp đó với 
nhau. Ví dụ: Lấy số lượng trẻ em được tiêm phòng 
của xã chia cho dân số của xã ta sẽ được một thuộc 
tính thứ ba cho xã là tỷ lệ trẻ em tiêm phòng tính 
theo xã. Tại mức này, người ta cũng có thể phân 
tích cùng lúc nhiều thuộc tính của lớp thông tin.
- Mức giữa các lớp thông tin: HTTĐL sẽ thực hiện 
một cách tương tự các phép phân tích, tích hợp 
thông tin đối với các lớp thông tin khác nhau để 
cho ra các kết quả. Trong văn liệu, cách làm này 
thường được gọi là chồng xếp các lớp thông tin 
(Map Overlaying). Lấy một ví dụ ở miền núi: chúng 
ta có thể sử dụng một lớp thông tin địa hình, một 
lớp thông tin vị trí các trạm y tế xã để đánh giá khả 
năng tiếp cận các cơ sở y tế xã của dân cư trong 
các xã có điều kiện địa hình khác nhau. Kết quả 
của phép phân tích này lại có thể đem chồng xếp 
với lớp thông tin bản đồ giao thông để đánh giá vai 
trò của giao thông miền núi đối với công tác chăm 
sóc sức khỏe v.v…
Một cách tóm tắt qua các ví dụ nêu trên chúng ta cũng 
đã thấy vai trò quan trọng của ý tưởng chuyên môn 
trong các bài toán ứng dụng HTTĐL vào từng lĩnh 
vực chuyên môn. Các ý tưởng này có thể được biểu 
diễn một cách tổng quát như sau (Pham Van Cu et al. 
2000):
 Ý tưởng chuyên ngành = ƒ(yếu tố1, yếu tố2, 
yếu tố3…….. yếu tốn) 
Trong công thức nói trên, số lượng các yếu tố và quan 
hệ giữa chúng sẽ do các nhà chuyên môn xác đinh 
chứ không phải do các chuyên gia về HTTĐL xác định. 
Chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề này ở phần xây dựng 
Cơ sở tri thức dưới đây.
- Chức năng hiển thị và xuất thông tin: là chức năng 
cho phép trình bày dữ liệu hoặc kết quả phân tích, tích 
hợp thông tin chủ yếu dưới dạng các bản đồ và các 
bảng thuộc tính đi kèm. Phương tiện chủ yếu để hiển 
thị thông tin là màn hình máy tính, các máy in màu. 
Các thông tin của HTTĐL ngày nay còn được hiển thị 
trên Internet nhờ các phần mềm kết nối các trang Web 
với CSDL của HTTĐL. Thông tin sản xuất ra từ HTTĐL 
hoàn toàn có thể được chuyển giao cho người sử dụng 
cũng qua Internet. Trên thế giới hiện tồn tại hàng ngàn 
trang Web trong lĩnh vực HTTĐL và rất nhiều trang 
dành cho chủ đề y tế.
Xây dựng các bài toán ứng dụng hay xây 
dựng cơ sở tri thức (CSTT) của HTTĐL
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, đây là phần quan 
trọng bậc nhất của các HTTĐL, trong đó có các 
HTTTĐL của lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, qua theo dõi 
sự phát triển ứng dụng HTTĐL trên thế giới chúng 
tôi thấy có sự thay đổi nhận thức về vai trò của các 
hợp phần của HTTĐL qua từng thời kỳ, đặc biệt tại 
các nước đang phát triển (Dangermond, J.,1986). Ở 
Việt Nam trước đây, khi nói đến ứng dụng HTTĐL, 
người ta thường nghĩ đến trang bị các phần mềm của 
90 Khóa học Tam Đảo 2008
HTTĐL hơn là nghĩ đến các hợp 
phần khác. Giai đoạn tiếp theo, đa 
phần người sử dụng lại coi trọng 
dữ liệu hơn cả và trong trường hợp 
đó, người ta đầu tư rất nhiều cho 
việc nhập dữ liệu. Ngay cả lúc đó, 
các dữ liệu được nhập vào chủ yếu 
là các bản đồ và các dữ liệu thuộc 
tính ít được coi trọng. Phải chờ đến 
khi nhận ra rằng các ứng dụng 
của HTTĐL phụ thuộc rất nhiều 
và các kiến thức chuyên môn đa 
ngành, liên ngành thì người ta mới 
coi trọng việc xây dựng các CSTT. 
Vậy CSTT trong HTTĐL là gì và vai 
trò của nó đối với hệ thống như 
thế nào? Thực chất đây là việc kết 
hợp ba mảng chuyên môn: Quản 
lý, Các chuyên ngành ứng dụng và 
Công nghệ thông tin để xây dựng dụng thiết kế cho 
HTTTĐL theo ý tưởng ban đầu của giới quản lý, nghĩa 
là căn cứ vào mục tiêu ứng dụng để quyết định chủng 
loại các dữ liệu cần thu thập, cấu trúc CSDL cần xây 
dựng. Căn cứ vào yêu cầu của giới quản lý, các nhà 
chuyên môn trong chuyên ngành sẽ là người cung 
cấp kiến thức về mối quan hệ của các đối tượng, hiện 
tượng, quá trình sẽ được mô tả bằng các dữ liệu không 
gian. Các chuyên gia về HTĐL và về công nghệ thông 
tin sẽ là người trợ giúp các nhà chuyên môn thực hiện 
bài toán của họ trên hệ thống dưới dạng các hàm 
chuyên gia. Như đã trình bày, điều quan trọng là phải 
có được định nghĩa một cách có cơ sở khoa học cho 
các mối quan hệ giữa các đối tượng, quá trình và hiện 
tượng mà chúng ta nghiên cứu thì mới có thể sử dụng 
các hàm toán học để xây dựng được các mô hình 
phân tích trên HTTĐL. Nói nôm na, trong HTTĐL thì 
vai trò của con người là quan trọng bậc nhất và chỉ có 
chấp nhận như vậy thì HTTĐL mới được xây dựng và 
khai thác đúng nghĩa.
Vấn đề phần cứng, phần mềm của 
HTTĐL
Đây là hai hợp phần còn lại của HTTĐL mà chúng tôi 
gộp lại trong phần trình bày với suy nghĩ cho rằng về 
bản chất phần cứng và phần mềm chỉ là phương tiện 
vật lý để thực hiện các thao tác trên HTTĐL. Mặt khác, 
với sự giảm giá liên tục như hiện nay của các máy tính 
cá nhân và các thiết bị ngoại vi như máy in, máy quét, 
thiết bị lưu trữ thì tỷ trọng tài chính đầu tư cho phần 
cứng không còn là vấn đề. 
Phần mềm HTTĐL hiện nay đang trở nên ngày càng 
đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ở nhiều mức 
độ khác nhau. Tuy nhiên, các chức năng tối thiểu của 
chúng thưòng rất giống nhau va quan trọng hơn cả là 
chúng cùng có vai trò giúp các chuyên gia thực hiện 
các thao tác dữ liệu như đã nêu ở phần trên. Có thể 
khẳng định rằng không có bất cứ phần mềm nào là 
vạn năng cả. Tuỳ thuộc vào định hướng ứng dụng của 
thị trường mà các hãng sản xuất sẽ đưa ra các thiết kế 
khác nhau, chức năng mở rộng khác nhau. Chính vì 
vậy các người sử dụng cũng thường căn cứ vào nhu 
cầu của mình mà đưa ra các giải pháp lực chọn khác 
nhau. 
Một cách tổng quát có thể hình dung các hợp phần 
của HTTĐL như trình bày trên hình 2.
Một số ví dụ về ứng dụng HTTĐL và 
ngành y tế ở Việt Nam
Ví	dụ	1:	Đánh	giá	ảnh	hưởng	của	yếu	tố	địa	hình	đến	
công	tác	chăm	sóc	sức	khoẻ	tại	miền	núi	tỉnh	Bắc	
Kạn	(Cao Kim Yến, 2002)
Để có được dữ liệu về số lượt người đi khám chữa 
bệnh và sinh đẻ tại trạm xá xã, nhóm nghiên cứu đã 
tiến hành điều tra tại năm xã nghiên cứu thuộc tỉnh Bắc 
Kạn: Khang Ninh, Địa Linh, Chợ Rã, Thượng Giáo và 
Nam Mẫu. Các dữ liệu này đã được nhập vào một Cơ 
sở dữ liệu của HTTĐL dưới dạng các bảng thuộc tính 
gắn với các đơn vị không gian (Bản đồ hành chính cấp 
xã) cơ bản là xã. Đây là các xã có đặc điểm dân tọc 
học tương tự như nhau với 75,5% dân số là người Tày, 
14,8% là ngưòi Kinh, 5,2% là người Dao, các nhóm 
còn lại