Bại não thể co cứng là nguyên nhân gây ra khiếm khuyết vận động phổ biến nhất ở trẻ em, hậu quả của
tổn thương tế bào thần kinh vận động trên. Co cứng cơ dẫn đến co rút, biến dạng cứng đờ khớp, nếu không
được điều trị có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng vận động và tư thế. Nghiên cứu này nhằm
đánh giá hiệu quả tiêm Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với phục hồi chức năng lên chức năng vận động
thô (GMFCS) ở trẻ bại não thể co cứng. 140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến 12 tuổi vào điều trị tại
khoa Phục hồi Chức năng - Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 12 năm 2017 được
tuyển chọn vào nghiên cứu và chia vào hai nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau can thiệp 12 tháng,
trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,87 ± 0,56 điểm so với trước can thiệp, p < 0,01, nhóm
chứng giảm 0,31 ± 0,47, p < 0,01. Trung bình khác biệt của trung bình điểm CMFCS sau can thiệp giữa
nhóm bệnh và nhóm chứng là 0,48 (p < 0,001). Trẻ bại não thể co cứng được tiêm Botulinum nhóm A kết
hợp với tập phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ ở mức độ tốt và rất tốt cao gấp 7,36 trẻ chỉ tập luyện
phục hồi chức năng đơn thuần có ý nghĩa thông kê với p < 0,001.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của tiêm Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với phục hồi chức năng lên chức năng vận động thô ở trẻ bại não thể co cứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
126 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
HIỆU QUẢ CỦA TIÊM BOTULINUM NHÓM A (DYSPORT)
KẾT HỢP VỚI PHỤC HỒI CHỨC NĂNG LÊN CHỨC NĂNG
VẬN ĐỘNG THÔ Ở TRẺ BẠI NÃO THỂ CO CỨNG
Nguyễn Văn Tùng1, Cao Minh Châu2,
Nguyễn Hữu Chút3, Nguyễn Thị Anh Đào1, Trương Thị Mai Hồng3
1Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 - *NCS Trường Đại học Y Hà Nội,
2Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Nhi Trung ương
Bại não thể co cứng là nguyên nhân gây ra khiếm khuyết vận động phổ biến nhất ở trẻ em, hậu quả của
tổn thương tế bào thần kinh vận động trên. Co cứng cơ dẫn đến co rút, biến dạng cứng đờ khớp, nếu không
được điều trị có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng vận động và tư thế. Nghiên cứu này nhằm
đánh giá hiệu quả tiêm Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với phục hồi chức năng lên chức năng vận động
thô (GMFCS) ở trẻ bại não thể co cứng. 140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến 12 tuổi vào điều trị tại
khoa Phục hồi Chức năng - Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 12 năm 2017 được
tuyển chọn vào nghiên cứu và chia vào hai nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau can thiệp 12 tháng,
trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,87 ± 0,56 điểm so với trước can thiệp, p < 0,01, nhóm
chứng giảm 0,31 ± 0,47, p < 0,01. Trung bình khác biệt của trung bình điểm CMFCS sau can thiệp giữa
nhóm bệnh và nhóm chứng là 0,48 (p < 0,001). Trẻ bại não thể co cứng được tiêm Botulinum nhóm A kết
hợp với tập phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ ở mức độ tốt và rất tốt cao gấp 7,36 trẻ chỉ tập luyện
phục hồi chức năng đơn thuần có ý nghĩa thông kê với p < 0,001.
Từ khóa: Bại não thể co cứng, chức năng vận động thô
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Văn Tùng, Bệnh viện Trung ương
Quân đội 108
Email: drtung79@gmail.com
Ngày nhận: 21/9/2018
Ngày được chấp thuận: 11/10/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bại não thể co cứng là nguyên nhân gây ra
khiếm khuyết vận động phổ biến nhất ở trẻ
em, hậu quả của tổn thương tế bào thần kinh
vận động trên. Tỷ lệ bại não chung từ 1/1000
dến 3/1000 trẻ sinh sống trong đó trẻ bại não
thể co cứng chiếm từ 62,6% đến 65,0% [1; 2].
Tình trạng co cứng cơ ở trẻ bại não thể co
cứng làm cho cử động của các khớp bị hạn
chế dẫn đến co rút cơ và cứng khớp, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chức năng vận
động, sự phát triển và cuộc sống hàng ngày
của trẻ. Trên thế giới việc sử dụng thuốc
Botulinum nhóm A để giảm trương lực cơ, hỗ
trợ cho các biện pháp can thiệp phục hồi chức
năng khác đã được thực hiện từ năm 1993
[3]. Tại Việt Nam cũng đã có một số báo cáo
về tác dụng hỗ trợ cũng như tính an toàn của
Botulinum nhóm A trong điều trị cho trẻ bại
não thể co cứng nhưng phần lớn các báo cáo
này được đánh giá trên mẫu nhỏ, thời gian
nghiên cứu ngắn [4; 5]. Từ thực tế trên chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá
hiệu quả tiêm Botulinum nhóm A (Dysport) kết
hợp với phục hồi chức năng lên chức năng
vận động thô ở trẻ bại não thể co cứng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến
12 tuổi có mốc vận động đứng, đi kiễng gót
TCNCYH 115 (6) - 2018 127
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
đang điều trị tại khoa Phục hồi Chức năng-
Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm
2015 đến tháng 12 năm 2017, thoả mãn các
tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ sau:
Lựa chọn trẻ bại não thể co cứng có độ co
cứng có điểm MAS độ ≥ 1+. Có GMFCS độ I -
IV. Được sự đồng ý của bố (mẹ) hoặc người
chăm sóc trẻ.
Loại trừ trẻ bại não thể co cứng có GMFCS
độ V. Trẻ bại có chậm phát triển trí tuệ và
động kinh nặng. Có tiêm Botulinum nhóm A,
dùng các thuốc giãn cơ hoặc phẫu thuật trong
vòng 6 tháng trước khi tham gia nghiên cứu.
Trẻ có các bệnh lý nhiễm trùng toàn thân hoặc
viêm nhiễm vùng cơ điều trị.
2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, có nhóm
chứng. Các trẻ được chọn vào hai nhóm
tương đồng về tuổi, định khu tổn thương, mức
độ chức năng vận động thô (GMFCS): Nhóm
can thiệp (n = 70): tiêm Botulinum nhóm A kết
hợp tập phục hồi chức năng và nhóm chứng
(n = 70): chỉ tập phục hồi chức năng. Điểm
MAS và tầm vận động thụ động khớp cổ chân
tại thời điểm trước can thiệp và sau can thiệp
1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng.
3. Tiêu chuẩn đánh giá
Chức năng vận động thô (GMFCS) của
trẻ Bại não thể co cứng
Chức năng vận động thô của trẻ bại não
được đánh giá theo thang điểm phân loại chức
năng vận động thô GMFCS (Gross Motor
Function Classification System) với 5 mức độ
trước và sau can thiệp [6].
Tiêu chuẩn cho điểm và phân loại mức
độ tiến bộ sau can thiệp
Tiêu chuẩn cho điểm
Mức độ chức năng vận động thô - GMFCS Điểm
Mức độ I 1
Mức độ II 2
Mức độ III 3
Mức độ IV 4
Mức độ V 5
Điểm tiến bộ = điểm trước can thiệp - điểm sau can thiệp
Phân loại mức độ tiến bộ
Mức độ tiến bộ Điểm tiến bộ
Xấu đi Sau can thiệp điểm tiến bộ < 0
Không tiến bộ Sau can thiệp điểm tiến bộ = 0
Tiến bộ tốt Sau can thiệp điểm tiến bộ = 1
Tiến bộ rất tốt Sau can thiệp điểm tiến bộ ≥ 2
128 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
4. Xử lý số liệu
Nhập số liệu và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Test thống kê được sử dụng là
t-ghép cặp, t-độc lập và Fisher’s Exact. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với giá trị p < 0,05.
5. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu và người giám hộ hợp pháp được cung cấp đầy đủ thông tin về nghiên
cứu. Đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự nguyện và có quyền rút lui khỏi nghiên cứu bất
cứ khi nào.
III. KẾT QUẢ
1. Thông tin chung đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm can thiệp
(n = 70)
Nhóm chứng
(n = 70)
Tổng p
Tuổi (tháng) (Mean ± SD) 60,66 ± 28,35 59,31 ± 27,24 59,99 ± 27,70 0,78
Giới Số trẻ (%) Số trẻ (%) Số trẻ (%)
0,12 Nam 47 (55,3) 38 (44,7) (100)
Nữ 23 (41,8) 32 (58,2) 55 (100)
Cân nặng (kg) (Mean ± SD) 17,91 ± 6,32 16,34 ± 5,73 17,13 ± 6,07 0,12
Định khu tổn thương Số trẻ (%) Số trẻ (%) Số trẻ (%)
Thể liệt tứ chi 28 (44,4) 35 (55,6) 63 (100)
0,42 Thể liệt hai chi dưới 29 (56,9) 22 (43,1) 51 (100)
Liệt nửa người (T/P) 13 (50,0) 13 (50,0) 26 (100)
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn.
Không có sự khác biệt có ỹ nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu về tuổi, giới, cân nặng
với p > 0,05.
Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng liệt tứ chi chiếm 45,0% (63/140), liệt cứng hai chi dưới chiếm
36,4% (51/140) và liệt cứng nửa người chiếm 18,6% (26/140). Sự khác biệt về định khu tổn
thương giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05.
TCNCYH 115 (6) - 2018 129
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2. Kết quả can thiệp
Bảng 2. So sánh trung bình điểm chức năng vận động thô (GMFCS)
trước và sau can thiệp qua các thời điểm đánh giá giữa hai nhóm
Thời điểm
đánh giá
Mức độ GMFCS (Mean ± SD)
Trung bình khác biệt
(95% CI) Nhóm can thiệp
(n = 70)
Nhóm chứng
(n = 70)
Trước can thiệp 2,61 ± 0,67 2,54 ± 0,65 0,07 (- 0,15; 0,30)
Sau 1 tháng 2,57 ± 0,71 2,51 ± 0,70 0,06 (- 0,17; 0,29)
Sau 3 tháng 1,77 ± 0,74 2,47 ± 0,72 - 0,70 (- 0,94; - 0,45)**
Sau 6 tháng 1,54 ± 0,73 2,42 ± 0,73 - 0,88 (- 1,13; - 0,64)**
Sau 12 tháng 1,74 ± 0,97 2,22 ± 0,91 - 0,48 (- 0,80; - 0,16)**
Không có * = p > 0,05; có * = p < 0,05; có ** = p < 0,01. Kiểm định t- độc lập.
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn;
CI: confidence interval = Khoảng tin cậy.
Không có sự khác biệt về trung bình điểm GMFCS giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng tại
thời điểm trước can thiệp và sau can thiệp 1 tháng (p > 0,05).
Có sự khác biệt về trung bình điểm GMFCS tại các thời điểm 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng
sau điều trị giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với p < 0,01.
Biểu đồ 1. So sánh trung bình điểm chức năng vận động thô (GMFCS)
qua các thời điểm đánh giá trong mỗi nhóm
Kiểm định t-ghép cặp
Sau 1 tháng can thiệp trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,04 điểm và ở nhóm
chứng giảm 0,03 điểm. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê ở cả nhóm chứng và nhóm
can thiệp.
130 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Sau 1 tháng can thiệp trung bình điểm
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,04 điểm và
ở nhóm chứng giảm 0,03 điểm. Sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê ở cả nhóm
chứng và nhóm can thiệp.
Sau 3 tháng can thiệp, trung bình điểm
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,84 điểm có
ý nghĩa thống kê (p < 0,01); ở nhóm chứng
giảm 0,07 điểm so với thời điểm bắt đầu điều
trị có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trung bình
điểm ở nhóm can thiệp giảm nhiều hơn 12 lần
so với nhóm chứng.
Sau 6 tháng can thiệp, trung bình điểm
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm ở nhóm can
thiệp giảm 1,07 điểm; ở nhóm chứng là 0,11
điểm, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trung
bình điểm ở nhóm can thiệp giảm nhiều hơn
9,7 lần so với nhóm chứng.
Sau 12 tháng can thiệp, trung bình điểm
GMFCS ở nhóm can thiệp ở nhóm can thiệp
là 0,87 điểm (p < 0,01); ở nhóm chứng là 0,31
điểm (p < 0,01). Trung bình điểm ở nhóm can
thiệp giảm nhiều hơn 2,8 lần so với nhóm
chứng.
Trong nhóm can thiệp thì trung bình điểm
giảm mạnh nhất ở thời điểm sau can thiệp 6
tháng (1,07 điểm, p < 0,01), đối với nhóm
chứng thì giảm mạnh nhất ở thời điểm sau
can thiệp 12 tháng (0,31 điểm, p < 0,01).
Bảng 3. Phân bố tỷ lệ mức tiến bộ GMFCS sau điều trị
Mức độ tiến bộ n Tỷ lệ %
Không tiến bộ 64 45,7
Tiến bộ tốt và rất tốt 76 54,3
Tổng 140 100
Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng có tiến bộ tốt và rất tốt chức năng vận động thô sau điều trị
chiếm 54,3%.
Bảng 4. Mối liên quan giữa mức độ tiến bộ với can thiệp
Nhóm
Mức độ tiến bộ
Tổng (%)
OR
(95%CI)
p
Tiến bộ tốt và rất tốt Không tiến bộ
Nhóm can thiệp
(n = 70)
54 (77,1) 16 (22,9) 70 (100) 7,36
(3,47;
15,62)
0,001
Nhóm chứng (n = 70) 22 (31,4) 48 (68,6) 70 (100)
Tổng 76 (54,3) 64 (45,7) 140 (100)
OR: Odds Ratio = tỷ suất chênh; CI: Confidence Interval = Khoảng tin cậy;
Kiểm định Fisher's Exact.
Trẻ được tiêm Botulinum nhóm A kết hợp tập phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ về
chức năng vận động thô cao gấp 7,36 lần so với trẻ chỉ điều trị PHCN đơn thuần, sự khác
biệt này có ý nghĩa với p < 0,01.
TCNCYH 115 (6) - 2018 131
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
IV. BÀN LUẬN
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 59,99 ± 27,77 tháng, thấp hơn
tuổi trung bình trong nghiên cứu của Carlos
Henrique (4,73 ± 2,18 tuổi) [4]. Nam chiếm đa
số 60,7%, tương tự như nghiên cứu của Car-
los Henrique [7]. Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng
liệt tứ chi chiếm 45,0%, liệt cứng hai chi dưới
chiếm 36,4% và liệt cứng nửa người chiếm
18,6%.
Trước can thiệp, trung bình điểm GMFCS
ở cả hai nhóm không có sự khác biệt có ý
nghĩa thông kê. Sau can thiệp 1 tháng, trung
bình điểm GMFCS ở cả 2 nhóm đều giảm, tuy
nhiên sự khác biệt này cũng chưa có ý nghĩa
thống kê (nhóm can thiệp 2,57 ± 0,71; nhóm
chứng 2,51 ± 0,70). Điều này có thể do ở
nhóm bệnh sau tiêm Botulinum nhóm A
(Dysport) trẻ phải bó bột cố định 2 tuần nên
khi tháo bột, trẻ bị đau do cố định vì vậy trẻ
chưa vận động tích cực được. Sau can thiệp
03 tháng, trung bình điểm GMFCS ở nhóm
bệnh giảm xuống 1,77 ± 0,74 và nhóm chứng
là 2,47 ± 0,72 sự khác biệt là 0,7 có ý nghĩa
thống kê. Điều này có thể do trẻ ở nhóm bệnh
sau khi tiêm Botulinum nhóm A (Dysport),
trương lực cơ giảm kết hợp với tập luyện làm
cho chức năng vận động thô của trẻ tốt hơn.
Đặc biệt cơ sinh đôi và cơ dép được kéo dài,
tầm vận động khớp cổ chân hạn chế ít hơn
nên thăng bằng đứng và đi của trẻ tốt hơn, trẻ
đi lại dễ dàng hơn và đỡ mất sức hơn. Đánh
giá sau can thiệp 6 tháng ở nhóm bệnh cho
thấy trung bình điểm GMFCS vẫn tiếp tục
giảm, đối với nhóm chứng thì trung bình điểm
GMFCS cũng giảm nhưng vẫn cao hơn nhóm
bệnh. Sự khác biệt về trung bình điểm giữa 2
nhóm là 0,88 và sự khác biệt này có ý nghĩa
thông kê. Khi đánh giá sau 12 tháng can thiệp
thì trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp
bắt đầu tăng lên. Điều này là phù hợp vì theo
các nghiên cứu trên thế giới thì tác dụng của
Botulinum nhóm A kéo dài trong 3 - 6 tháng,
sau khi đó tác dụng của thuốc hết thì trương
lược cơ của trẻ bắt đầu tăng trở lại [3]. Do
đó trẻ vận động khó khăn hơn, tuy nhiên
đánh giá sau 12 tháng can thiệp thì trung
bình điểm GMFCS ở nhóm bệnh vẫn thấp
hơn ở nhóm chứng và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê. Đây là một bằng chứng
khẳng định tác dụng bền vững của việc tiêm
Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với
phục hồi chức năng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
trung bình khác biệt điểm GMFCS khi so sánh
trước can thiệp với các giai đoạn sau can
thiệp ở nhóm tcan thiệp thì trung bình khác
biệt lớn nhất là ở giai đoạn sau 6 tháng can
thiệp, tiếp theo là ở giai đoạn sau 12 tháng
can thiệp. Điều này cho thấy nếu tập luyện
tích cực trong thời gian thuốc có tác dụng và
tiếp tục tập luyện tích cực sau khi thuốc hết
tác dụng thì chức năng vận động đã đạt được
có thể được duy trì trong thời gian dài hơn.
Tỷ lệ trẻ có tiến bộ chung sau thời gian can
thiệp là 76 trẻ chiếm 54,3%. Tỷ lệ trẻ tiến bộ ở
mức độ tốt và rất tốt ở nhóm can thiệp là
54/70, ở nhóm chứng là 22/70. Tỷ lệ tiến bộ ở
mức độ tốt và rất tốt ở nhóm can thiệp cao
hơn trong nghiên cứu của Trịnh Quang Dũng
và Nguyễn Hữu Chút. Điều này có thể do
nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện sau
nghiên cứu của Trịnh Quang Dũng và Nguyễn
Hữu Chút khi qui trình tiêm Botulinum nhóm A
và tập luyện phục hồi chức năng của khoa đã
được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ không
tiến bộ trong nghiên cứu của chúng tôi cũng
cao hơn trong nghiên cứu của Trịnh Quang
Dũng và Nguyễn Hữu Chút. Điều này có thể
do thời gian đánh giá trong nghiên cứu của
132 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
chúng tôi dài hơn (12 tháng), khi tác dụng của
thuốc đã hết trước đó 6 tháng còn nghiên cứu
của Trịnh Quang Dũng và Nguyễn Hữu Chút
thì thời điểm đánh giá là thời điểm vừa hết tác
dụng của thuốc (6 tháng) [4].
Phân tích mối liên quan cho thấy nếu trẻ
bại não thể co cứng được tiêm Botulinum
nhóm A (Dysport) kết hợp với tập phục hồi
chức năng thì khả năng tiến bộ ở mức độ tốt
và rất tốt cao gấp 7,36 lần trẻ chỉ tập luyện
phục hồi chức năng đơn thuần có ý nghĩa
thông kê.
V. KẾT LUẬN
Sau can thiệp 12 tháng trung bình điểm
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,87 ± 0,56
điểm, p < 0,01. Trung bình điểm GMFCS ở
nhóm chứng giảm 0,31 ± 0,47, p < 0,01.
Trung bình khác biệt của trung bình điểm
GMFCS sau can thiệp giữa nhóm bệnh và
nhóm chứng là 0,48 có ý nghĩa thống kê.
Trẻ bại não thể co cứng được tiêm
Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với tập
phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ mức
độ tốt và rất tốt cao gấp 7,36 lần trẻ chỉ tập
luyện phục hồi chức năng đơn thuần, có ý
nghĩa thông kê.
Lời cám ơn
Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến
các Giáo sư, chuyên gia, tập thể nhân viên và
lãnh đạo khoa Phục hồi Chức năng- Bệnh
viện Nhi Trung ương đã giúp đỡ trong quá
trình thu thập số liệu, đóng góp ý kiến, chỉnh
sửa để hoàn thiện bài báo này. Đặc biệt tác
giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các bệnh
nhân, gia đình bệnh nhân đã phối hợp, tham
gia trong suốt quá trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Thu Hà (2002). Nghiên cứu
một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và nhu cầu
phục hồi chức năng ở trẻ bại não. Luận án
Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
2. Blair E, Stanley FJ (1997). Issues in the
classification and epidemiology of cerebral
palsy. Ment Retard Dev Disabil Res Rev, 3,
184 - 193.
3. Ade-Hall RA, Moore AP (2000).
Botulinum toxin type A in the treatment of
lower limb spasticity in cerebral palsy. Coch-
rane Database Syst Rev, (2), CD001408.
4. Trịnh Quang Dũng, Nguyễn Hữu Chút
(2014). Đánh giá kết quả phục hồi chức năng
bại não thể co cứng bằng tiêm Dysport
(Botulinum Toxin Type A) và các biện pháp
phối hợp. Tạp chí Y học Thực hành, 912,
58 - 61.
5. Nguyễn Thi Hùng (2010). Nhận xét về
10 trường hợp co cứng cơ trong bại não điều
trị bằng Toxin Botilinum. Tạp chí Y học thành
phố Hồ Chí Minh, 14(1).
6. Palisano, R (1997). Development and
reliability of a system to classify gross motor
function in children with cerebral palsy. Dev
Med Child Neurol, 39(4), 214 - 223.
7. Carlos Henrique F (2009). Botulinum
Toxin Type A In The Treatment Of Lower Limb
Spasticity In Children With Cerebral Palsy. Arq
Neuropsiquiatr, 67(1), 62 - 68.
TCNCYH 115 (6) - 2018 133
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
EFFECT OF BOTULINUM TOXIN TYPE A (DYSPORT) INJECTION
COMBINED WITH REHABILITATION ON GROSS MOTOR FUNCTION
IN CHILDREN WITH SPASTIC CEREBRAL PALSY
Spastic cerebral palsy is the most common cause of motor disability in childhood, resulting
from an upper motor neuron lesion. Spasticity can result in the development of joint contractures.
If left untreated, they may result in fixed joint deformities, and can seriously affect gross motor
function and posture. The aim of this study was to evaluate the effect of Botulinum toxin type A
(Dysport) Injection in combination with rehabilitation on Gross Motor Function in children with
spastic cerebral palsy. A group of 140 children aged 2 to 12 years with spastic cerebral palsy
were recruited from the Rehabilitation Department of National Children’s Hospital from December
2015 to December 2017 and divided into two groups. In this study, the mean of GMFCS scores in
the intervention group decreased significantly by 0.87 ± 0.56 (p < 0.01), while the mean of
GMFCS scores in the control group decreased by 0.31 ± 0.47 with p < 0.01. The mean difference
of GMFCS scores after 12 months of treatment between the intervention group and control group
was 0.48 (p < 0.001). Children with spastic cerebral palsy treated with Botulinum toxin type A
(Dysport) injection and rehabilitation therapy showed good progress and progressed 7.36 times
higher than children who had rehabilitation therapy only (p < 0.001).
Keywords: Spastic type of cerebral palsy, Gross Motor Function