126 TCNCYH 115 (6) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
HIỆU QUẢ CỦA TIÊM BOTULINUM NHÓM A (DYSPORT) 
KẾT HỢP VỚI PHỤC HỒI CHỨC NĂNG LÊN CHỨC NĂNG 
VẬN ĐỘNG THÔ Ở TRẺ BẠI NÃO THỂ CO CỨNG 
Nguyễn Văn Tùng1, Cao Minh Châu2, 
Nguyễn Hữu Chút3, Nguyễn Thị Anh Đào1, Trương Thị Mai Hồng3 
1Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 - *NCS Trường Đại học Y Hà Nội, 
2Trường Đại học Y Hà Nội, 3Bệnh viện Nhi Trung ương 
Bại não thể co cứng là nguyên nhân gây ra khiếm khuyết vận động phổ biến nhất ở trẻ em, hậu quả của 
tổn thương tế bào thần kinh vận động trên. Co cứng cơ dẫn đến co rút, biến dạng cứng đờ khớp, nếu không 
được điều trị có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng vận động và tư thế. Nghiên cứu này nhằm 
đánh giá hiệu quả tiêm Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với phục hồi chức năng lên chức năng vận động 
thô (GMFCS) ở trẻ bại não thể co cứng. 140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến 12 tuổi vào điều trị tại 
khoa Phục hồi Chức năng - Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 12 năm 2017 được 
tuyển chọn vào nghiên cứu và chia vào hai nhóm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau can thiệp 12 tháng, 
trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,87 ± 0,56 điểm so với trước can thiệp, p < 0,01, nhóm 
chứng giảm 0,31 ± 0,47, p < 0,01. Trung bình khác biệt của trung bình điểm CMFCS sau can thiệp giữa 
nhóm bệnh và nhóm chứng là 0,48 (p < 0,001). Trẻ bại não thể co cứng được tiêm Botulinum nhóm A kết 
hợp với tập phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ ở mức độ tốt và rất tốt cao gấp 7,36 trẻ chỉ tập luyện 
phục hồi chức năng đơn thuần có ý nghĩa thông kê với p < 0,001. 
Từ khóa: Bại não thể co cứng, chức năng vận động thô 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Văn Tùng, Bệnh viện Trung ương 
Quân đội 108 
Email: 
[email protected] 
Ngày nhận: 21/9/2018 
Ngày được chấp thuận: 11/10/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bại não thể co cứng là nguyên nhân gây ra 
khiếm khuyết vận động phổ biến nhất ở trẻ 
em, hậu quả của tổn thương tế bào thần kinh 
vận động trên. Tỷ lệ bại não chung từ 1/1000 
dến 3/1000 trẻ sinh sống trong đó trẻ bại não 
thể co cứng chiếm từ 62,6% đến 65,0% [1; 2]. 
Tình trạng co cứng cơ ở trẻ bại não thể co 
cứng làm cho cử động của các khớp bị hạn 
chế dẫn đến co rút cơ và cứng khớp, gây ảnh 
hưởng nghiêm trọng đến chức năng vận 
động, sự phát triển và cuộc sống hàng ngày 
của trẻ. Trên thế giới việc sử dụng thuốc 
Botulinum nhóm A để giảm trương lực cơ, hỗ 
trợ cho các biện pháp can thiệp phục hồi chức 
năng khác đã được thực hiện từ năm 1993 
[3]. Tại Việt Nam cũng đã có một số báo cáo 
về tác dụng hỗ trợ cũng như tính an toàn của 
Botulinum nhóm A trong điều trị cho trẻ bại 
não thể co cứng nhưng phần lớn các báo cáo 
này được đánh giá trên mẫu nhỏ, thời gian 
nghiên cứu ngắn [4; 5]. Từ thực tế trên chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá 
hiệu quả tiêm Botulinum nhóm A (Dysport) kết 
hợp với phục hồi chức năng lên chức năng 
vận động thô ở trẻ bại não thể co cứng. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
140 trẻ bại não thể co cứng từ 2 tuổi đến 
12 tuổi có mốc vận động đứng, đi kiễng gót 
 TCNCYH 115 (6) - 2018 127 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
đang điều trị tại khoa Phục hồi Chức năng- 
Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 12 năm 
2015 đến tháng 12 năm 2017, thoả mãn các 
tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ sau: 
Lựa chọn trẻ bại não thể co cứng có độ co 
cứng có điểm MAS độ ≥ 1+. Có GMFCS độ I - 
IV. Được sự đồng ý của bố (mẹ) hoặc người 
chăm sóc trẻ. 
Loại trừ trẻ bại não thể co cứng có GMFCS 
độ V. Trẻ bại có chậm phát triển trí tuệ và 
động kinh nặng. Có tiêm Botulinum nhóm A, 
dùng các thuốc giãn cơ hoặc phẫu thuật trong 
vòng 6 tháng trước khi tham gia nghiên cứu. 
Trẻ có các bệnh lý nhiễm trùng toàn thân hoặc 
viêm nhiễm vùng cơ điều trị. 
2. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, có nhóm 
chứng. Các trẻ được chọn vào hai nhóm 
tương đồng về tuổi, định khu tổn thương, mức 
độ chức năng vận động thô (GMFCS): Nhóm 
can thiệp (n = 70): tiêm Botulinum nhóm A kết 
hợp tập phục hồi chức năng và nhóm chứng 
(n = 70): chỉ tập phục hồi chức năng. Điểm 
MAS và tầm vận động thụ động khớp cổ chân 
tại thời điểm trước can thiệp và sau can thiệp 
1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng. 
3. Tiêu chuẩn đánh giá 
Chức năng vận động thô (GMFCS) của 
trẻ Bại não thể co cứng 
Chức năng vận động thô của trẻ bại não 
được đánh giá theo thang điểm phân loại chức 
năng vận động thô GMFCS (Gross Motor 
Function Classification System) với 5 mức độ 
trước và sau can thiệp [6]. 
Tiêu chuẩn cho điểm và phân loại mức 
độ tiến bộ sau can thiệp 
Tiêu chuẩn cho điểm 
Mức độ chức năng vận động thô - GMFCS Điểm 
Mức độ I 1 
Mức độ II 2 
Mức độ III 3 
Mức độ IV 4 
Mức độ V 5 
Điểm tiến bộ = điểm trước can thiệp - điểm sau can thiệp 
Phân loại mức độ tiến bộ 
Mức độ tiến bộ Điểm tiến bộ 
Xấu đi Sau can thiệp điểm tiến bộ < 0 
Không tiến bộ Sau can thiệp điểm tiến bộ = 0 
Tiến bộ tốt Sau can thiệp điểm tiến bộ = 1 
Tiến bộ rất tốt Sau can thiệp điểm tiến bộ ≥ 2 
 128 TCNCYH 115 (6) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
4. Xử lý số liệu 
Nhập số liệu và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Test thống kê được sử dụng là 
t-ghép cặp, t-độc lập và Fisher’s Exact. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với giá trị p < 0,05. 
5. Đạo đức nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu và người giám hộ hợp pháp được cung cấp đầy đủ thông tin về nghiên 
cứu. Đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự nguyện và có quyền rút lui khỏi nghiên cứu bất 
cứ khi nào. 
III. KẾT QUẢ 
1. Thông tin chung đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Đặc điểm 
Nhóm can thiệp 
(n = 70) 
Nhóm chứng 
 (n = 70) 
Tổng p 
Tuổi (tháng) (Mean ± SD) 60,66 ± 28,35 59,31 ± 27,24 59,99 ± 27,70 0,78 
Giới Số trẻ (%) Số trẻ (%) Số trẻ (%) 
0,12 Nam 47 (55,3) 38 (44,7) (100) 
Nữ 23 (41,8) 32 (58,2) 55 (100) 
Cân nặng (kg) (Mean ± SD) 17,91 ± 6,32 16,34 ± 5,73 17,13 ± 6,07 0,12 
Định khu tổn thương Số trẻ (%) Số trẻ (%) Số trẻ (%) 
Thể liệt tứ chi 28 (44,4) 35 (55,6) 63 (100) 
0,42 Thể liệt hai chi dưới 29 (56,9) 22 (43,1) 51 (100) 
Liệt nửa người (T/P) 13 (50,0) 13 (50,0) 26 (100) 
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn. 
Không có sự khác biệt có ỹ nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu về tuổi, giới, cân nặng 
với p > 0,05. 
Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng liệt tứ chi chiếm 45,0% (63/140), liệt cứng hai chi dưới chiếm 
36,4% (51/140) và liệt cứng nửa người chiếm 18,6% (26/140). Sự khác biệt về định khu tổn 
thương giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. 
 TCNCYH 115 (6) - 2018 129 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2. Kết quả can thiệp 
Bảng 2. So sánh trung bình điểm chức năng vận động thô (GMFCS) 
trước và sau can thiệp qua các thời điểm đánh giá giữa hai nhóm 
Thời điểm 
đánh giá 
Mức độ GMFCS (Mean ± SD) 
Trung bình khác biệt 
(95% CI) Nhóm can thiệp 
(n = 70) 
Nhóm chứng 
(n = 70) 
Trước can thiệp 2,61 ± 0,67 2,54 ± 0,65 0,07 (- 0,15; 0,30) 
Sau 1 tháng 2,57 ± 0,71 2,51 ± 0,70 0,06 (- 0,17; 0,29) 
Sau 3 tháng 1,77 ± 0,74 2,47 ± 0,72 - 0,70 (- 0,94; - 0,45)** 
Sau 6 tháng 1,54 ± 0,73 2,42 ± 0,73 - 0,88 (- 1,13; - 0,64)** 
Sau 12 tháng 1,74 ± 0,97 2,22 ± 0,91 - 0,48 (- 0,80; - 0,16)** 
Không có * = p > 0,05; có * = p < 0,05; có ** = p < 0,01. Kiểm định t- độc lập. 
Mean = Trung bình; SD: standard deviation = Độ lệch chuẩn; 
CI: confidence interval = Khoảng tin cậy. 
Không có sự khác biệt về trung bình điểm GMFCS giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng tại 
thời điểm trước can thiệp và sau can thiệp 1 tháng (p > 0,05). 
Có sự khác biệt về trung bình điểm GMFCS tại các thời điểm 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng 
sau điều trị giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng với p < 0,01. 
Biểu đồ 1. So sánh trung bình điểm chức năng vận động thô (GMFCS) 
qua các thời điểm đánh giá trong mỗi nhóm 
Kiểm định t-ghép cặp 
Sau 1 tháng can thiệp trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,04 điểm và ở nhóm 
chứng giảm 0,03 điểm. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê ở cả nhóm chứng và nhóm 
can thiệp. 
 130 TCNCYH 115 (6) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Sau 1 tháng can thiệp trung bình điểm 
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,04 điểm và 
ở nhóm chứng giảm 0,03 điểm. Sự khác biệt 
này không có ý nghĩa thống kê ở cả nhóm 
chứng và nhóm can thiệp. 
Sau 3 tháng can thiệp, trung bình điểm 
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,84 điểm có 
ý nghĩa thống kê (p < 0,01); ở nhóm chứng 
giảm 0,07 điểm so với thời điểm bắt đầu điều 
trị có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trung bình 
điểm ở nhóm can thiệp giảm nhiều hơn 12 lần 
so với nhóm chứng. 
Sau 6 tháng can thiệp, trung bình điểm 
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm ở nhóm can 
thiệp giảm 1,07 điểm; ở nhóm chứng là 0,11 
điểm, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trung 
bình điểm ở nhóm can thiệp giảm nhiều hơn 
9,7 lần so với nhóm chứng. 
Sau 12 tháng can thiệp, trung bình điểm 
GMFCS ở nhóm can thiệp ở nhóm can thiệp 
là 0,87 điểm (p < 0,01); ở nhóm chứng là 0,31 
điểm (p < 0,01). Trung bình điểm ở nhóm can 
thiệp giảm nhiều hơn 2,8 lần so với nhóm 
chứng. 
Trong nhóm can thiệp thì trung bình điểm 
giảm mạnh nhất ở thời điểm sau can thiệp 6 
tháng (1,07 điểm, p < 0,01), đối với nhóm 
chứng thì giảm mạnh nhất ở thời điểm sau 
can thiệp 12 tháng (0,31 điểm, p < 0,01). 
Bảng 3. Phân bố tỷ lệ mức tiến bộ GMFCS sau điều trị 
Mức độ tiến bộ n Tỷ lệ % 
Không tiến bộ 64 45,7 
Tiến bộ tốt và rất tốt 76 54,3 
Tổng 140 100 
Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng có tiến bộ tốt và rất tốt chức năng vận động thô sau điều trị 
chiếm 54,3%. 
Bảng 4. Mối liên quan giữa mức độ tiến bộ với can thiệp 
Nhóm 
Mức độ tiến bộ 
Tổng (%) 
OR 
(95%CI) 
p 
Tiến bộ tốt và rất tốt Không tiến bộ 
Nhóm can thiệp 
(n = 70) 
54 (77,1) 16 (22,9) 70 (100) 7,36 
(3,47; 
15,62) 
0,001 
Nhóm chứng (n = 70) 22 (31,4) 48 (68,6) 70 (100) 
Tổng 76 (54,3) 64 (45,7) 140 (100) 
OR: Odds Ratio = tỷ suất chênh; CI: Confidence Interval = Khoảng tin cậy; 
Kiểm định Fisher's Exact. 
Trẻ được tiêm Botulinum nhóm A kết hợp tập phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ về 
chức năng vận động thô cao gấp 7,36 lần so với trẻ chỉ điều trị PHCN đơn thuần, sự khác 
biệt này có ý nghĩa với p < 0,01. 
 TCNCYH 115 (6) - 2018 131 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
IV. BÀN LUẬN 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 59,99 ± 27,77 tháng, thấp hơn 
tuổi trung bình trong nghiên cứu của Carlos 
Henrique (4,73 ± 2,18 tuổi) [4]. Nam chiếm đa 
số 60,7%, tương tự như nghiên cứu của Car-
los Henrique [7]. Tỷ lệ trẻ bại não thể co cứng 
liệt tứ chi chiếm 45,0%, liệt cứng hai chi dưới 
chiếm 36,4% và liệt cứng nửa người chiếm 
18,6%. 
Trước can thiệp, trung bình điểm GMFCS 
ở cả hai nhóm không có sự khác biệt có ý 
nghĩa thông kê. Sau can thiệp 1 tháng, trung 
bình điểm GMFCS ở cả 2 nhóm đều giảm, tuy 
nhiên sự khác biệt này cũng chưa có ý nghĩa 
thống kê (nhóm can thiệp 2,57 ± 0,71; nhóm 
chứng 2,51 ± 0,70). Điều này có thể do ở 
nhóm bệnh sau tiêm Botulinum nhóm A 
(Dysport) trẻ phải bó bột cố định 2 tuần nên 
khi tháo bột, trẻ bị đau do cố định vì vậy trẻ 
chưa vận động tích cực được. Sau can thiệp 
03 tháng, trung bình điểm GMFCS ở nhóm 
bệnh giảm xuống 1,77 ± 0,74 và nhóm chứng 
là 2,47 ± 0,72 sự khác biệt là 0,7 có ý nghĩa 
thống kê. Điều này có thể do trẻ ở nhóm bệnh 
sau khi tiêm Botulinum nhóm A (Dysport), 
trương lực cơ giảm kết hợp với tập luyện làm 
cho chức năng vận động thô của trẻ tốt hơn. 
Đặc biệt cơ sinh đôi và cơ dép được kéo dài, 
tầm vận động khớp cổ chân hạn chế ít hơn 
nên thăng bằng đứng và đi của trẻ tốt hơn, trẻ 
đi lại dễ dàng hơn và đỡ mất sức hơn. Đánh 
giá sau can thiệp 6 tháng ở nhóm bệnh cho 
thấy trung bình điểm GMFCS vẫn tiếp tục 
giảm, đối với nhóm chứng thì trung bình điểm 
GMFCS cũng giảm nhưng vẫn cao hơn nhóm 
bệnh. Sự khác biệt về trung bình điểm giữa 2 
nhóm là 0,88 và sự khác biệt này có ý nghĩa 
thông kê. Khi đánh giá sau 12 tháng can thiệp 
thì trung bình điểm GMFCS ở nhóm can thiệp 
bắt đầu tăng lên. Điều này là phù hợp vì theo 
các nghiên cứu trên thế giới thì tác dụng của 
Botulinum nhóm A kéo dài trong 3 - 6 tháng, 
sau khi đó tác dụng của thuốc hết thì trương 
lược cơ của trẻ bắt đầu tăng trở lại [3]. Do 
đó trẻ vận động khó khăn hơn, tuy nhiên 
đánh giá sau 12 tháng can thiệp thì trung 
bình điểm GMFCS ở nhóm bệnh vẫn thấp 
hơn ở nhóm chứng và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê. Đây là một bằng chứng 
khẳng định tác dụng bền vững của việc tiêm 
Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với 
phục hồi chức năng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
trung bình khác biệt điểm GMFCS khi so sánh 
trước can thiệp với các giai đoạn sau can 
thiệp ở nhóm tcan thiệp thì trung bình khác 
biệt lớn nhất là ở giai đoạn sau 6 tháng can 
thiệp, tiếp theo là ở giai đoạn sau 12 tháng 
can thiệp. Điều này cho thấy nếu tập luyện 
tích cực trong thời gian thuốc có tác dụng và 
tiếp tục tập luyện tích cực sau khi thuốc hết 
tác dụng thì chức năng vận động đã đạt được 
có thể được duy trì trong thời gian dài hơn. 
Tỷ lệ trẻ có tiến bộ chung sau thời gian can 
thiệp là 76 trẻ chiếm 54,3%. Tỷ lệ trẻ tiến bộ ở 
mức độ tốt và rất tốt ở nhóm can thiệp là 
54/70, ở nhóm chứng là 22/70. Tỷ lệ tiến bộ ở 
mức độ tốt và rất tốt ở nhóm can thiệp cao 
hơn trong nghiên cứu của Trịnh Quang Dũng 
và Nguyễn Hữu Chút. Điều này có thể do 
nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện sau 
nghiên cứu của Trịnh Quang Dũng và Nguyễn 
Hữu Chút khi qui trình tiêm Botulinum nhóm A 
và tập luyện phục hồi chức năng của khoa đã 
được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ không 
tiến bộ trong nghiên cứu của chúng tôi cũng 
cao hơn trong nghiên cứu của Trịnh Quang 
Dũng và Nguyễn Hữu Chút. Điều này có thể 
do thời gian đánh giá trong nghiên cứu của 
 132 TCNCYH 115 (6) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
chúng tôi dài hơn (12 tháng), khi tác dụng của 
thuốc đã hết trước đó 6 tháng còn nghiên cứu 
của Trịnh Quang Dũng và Nguyễn Hữu Chút 
thì thời điểm đánh giá là thời điểm vừa hết tác 
dụng của thuốc (6 tháng) [4]. 
Phân tích mối liên quan cho thấy nếu trẻ 
bại não thể co cứng được tiêm Botulinum 
nhóm A (Dysport) kết hợp với tập phục hồi 
chức năng thì khả năng tiến bộ ở mức độ tốt 
và rất tốt cao gấp 7,36 lần trẻ chỉ tập luyện 
phục hồi chức năng đơn thuần có ý nghĩa 
thông kê. 
V. KẾT LUẬN 
Sau can thiệp 12 tháng trung bình điểm 
GMFCS ở nhóm can thiệp giảm 0,87 ± 0,56 
điểm, p < 0,01. Trung bình điểm GMFCS ở 
nhóm chứng giảm 0,31 ± 0,47, p < 0,01. 
Trung bình khác biệt của trung bình điểm 
GMFCS sau can thiệp giữa nhóm bệnh và 
nhóm chứng là 0,48 có ý nghĩa thống kê. 
Trẻ bại não thể co cứng được tiêm 
Botulinum nhóm A (Dysport) kết hợp với tập 
phục hồi chức năng thì khả năng tiến bộ mức 
độ tốt và rất tốt cao gấp 7,36 lần trẻ chỉ tập 
luyện phục hồi chức năng đơn thuần, có ý 
nghĩa thông kê. 
Lời cám ơn 
Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến 
các Giáo sư, chuyên gia, tập thể nhân viên và 
lãnh đạo khoa Phục hồi Chức năng- Bệnh 
viện Nhi Trung ương đã giúp đỡ trong quá 
trình thu thập số liệu, đóng góp ý kiến, chỉnh 
sửa để hoàn thiện bài báo này. Đặc biệt tác 
giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các bệnh 
nhân, gia đình bệnh nhân đã phối hợp, tham 
gia trong suốt quá trình nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Thị Thu Hà (2002). Nghiên cứu 
một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và nhu cầu 
phục hồi chức năng ở trẻ bại não. Luận án 
Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 
2. Blair E, Stanley FJ (1997). Issues in the 
classification and epidemiology of cerebral 
palsy. Ment Retard Dev Disabil Res Rev, 3, 
184 - 193. 
3. Ade-Hall RA, Moore AP (2000). 
Botulinum toxin type A in the treatment of 
lower limb spasticity in cerebral palsy. Coch-
rane Database Syst Rev, (2), CD001408. 
4. Trịnh Quang Dũng, Nguyễn Hữu Chút 
(2014). Đánh giá kết quả phục hồi chức năng 
bại não thể co cứng bằng tiêm Dysport 
(Botulinum Toxin Type A) và các biện pháp 
phối hợp. Tạp chí Y học Thực hành, 912, 
58 - 61. 
5. Nguyễn Thi Hùng (2010). Nhận xét về 
10 trường hợp co cứng cơ trong bại não điều 
trị bằng Toxin Botilinum. Tạp chí Y học thành 
phố Hồ Chí Minh, 14(1). 
6. Palisano, R (1997). Development and 
reliability of a system to classify gross motor 
function in children with cerebral palsy. Dev 
Med Child Neurol, 39(4), 214 - 223. 
7. Carlos Henrique F (2009). Botulinum 
Toxin Type A In The Treatment Of Lower Limb 
Spasticity In Children With Cerebral Palsy. Arq 
Neuropsiquiatr, 67(1), 62 - 68. 
 TCNCYH 115 (6) - 2018 133 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Summary 
EFFECT OF BOTULINUM TOXIN TYPE A (DYSPORT) INJECTION 
COMBINED WITH REHABILITATION ON GROSS MOTOR FUNCTION 
IN CHILDREN WITH SPASTIC CEREBRAL PALSY 
Spastic cerebral palsy is the most common cause of motor disability in childhood, resulting 
from an upper motor neuron lesion. Spasticity can result in the development of joint contractures. 
If left untreated, they may result in fixed joint deformities, and can seriously affect gross motor 
function and posture. The aim of this study was to evaluate the effect of Botulinum toxin type A 
(Dysport) Injection in combination with rehabilitation on Gross Motor Function in children with 
spastic cerebral palsy. A group of 140 children aged 2 to 12 years with spastic cerebral palsy 
were recruited from the Rehabilitation Department of National Children’s Hospital from December 
2015 to December 2017 and divided into two groups. In this study, the mean of GMFCS scores in 
the intervention group decreased significantly by 0.87 ± 0.56 (p < 0.01), while the mean of 
GMFCS scores in the control group decreased by 0.31 ± 0.47 with p < 0.01. The mean difference 
of GMFCS scores after 12 months of treatment between the intervention group and control group 
was 0.48 (p < 0.001). Children with spastic cerebral palsy treated with Botulinum toxin type A 
(Dysport) injection and rehabilitation therapy showed good progress and progressed 7.36 times 
higher than children who had rehabilitation therapy only (p < 0.001). 
Keywords: Spastic type of cerebral palsy, Gross Motor Function