Giãn cơ được sử dụng thường xuyên trong phẫu thuật ổ bụng nhằm mục đích cải thiện điều kiện phẫu
thuật. Bằng chứng ủng hộ cho việc sử dụng thường quy giãn cơ sâu vẫn còn nhiều tranh cãi. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả của giãn cơ sâu so với giãn cơ trung bình trong phẫu thuật nội soi
ổ bụng. Phương pháp nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên mù đơn có đối chứng. Nghiên cứu thực
hiện từ tháng 3/2018 đến tháng 10/2018 trên 60 bệnh nhân phẫu thuật nội soi ổ bụng có chương trình. 60
bệnh nhân được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm 1 - giãn cơ sâu (Train Of Four (TOF) 0 và Post Tetanic
Count (PTC) 1 - 2, n = 30), nhóm 2 - giãn cơ trung bình (TOF 1 - 2, n = 30). Kết quả nghiên cứu cho thấy áp
lực ổ bụng giảm thấp hơn ở nhóm giãn cơ sâu (9,5 ± 1.5 và 11,1 ± 1,26 mmHg, p = 0,000), phẫu trường tối
ưu hơn (p = 0,012), không có sự khác biệt về hô hấp, huyết động, đau sau mổ giữa 2 nhóm (p > 0,05). Giãn
cơ sâu cải thiện điều kiện phẫu thuật đáng kể, không ảnh hưởng khác biệt đến các chỉ số hô hấp, huyết
động, đau sau mổ.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giãn cơ sâu trong phẫu thuật nội soi ổ bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
134 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
HIỆU QUẢ GIÃN CƠ SÂU TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG
Ngô Thị Huê1, Nguyễn Hữu Tú2
Khoa Gây mê hồi sức và chống đau, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Giãn cơ được sử dụng thường xuyên trong phẫu thuật ổ bụng nhằm mục đích cải thiện điều kiện phẫu
thuật. Bằng chứng ủng hộ cho việc sử dụng thường quy giãn cơ sâu vẫn còn nhiều tranh cãi. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả của giãn cơ sâu so với giãn cơ trung bình trong phẫu thuật nội soi
ổ bụng. Phương pháp nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên mù đơn có đối chứng. Nghiên cứu thực
hiện từ tháng 3/2018 đến tháng 10/2018 trên 60 bệnh nhân phẫu thuật nội soi ổ bụng có chương trình. 60
bệnh nhân được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm 1 - giãn cơ sâu (Train Of Four (TOF) 0 và Post Tetanic
Count (PTC) 1 - 2, n = 30), nhóm 2 - giãn cơ trung bình (TOF 1 - 2, n = 30). Kết quả nghiên cứu cho thấy áp
lực ổ bụng giảm thấp hơn ở nhóm giãn cơ sâu (9,5 ± 1.5 và 11,1 ± 1,26 mmHg, p = 0,000), phẫu trường tối
ưu hơn (p = 0,012), không có sự khác biệt về hô hấp, huyết động, đau sau mổ giữa 2 nhóm (p > 0,05). Giãn
cơ sâu cải thiện điều kiện phẫu thuật đáng kể, không ảnh hưởng khác biệt đến các chỉ số hô hấp, huyết
động, đau sau mổ.
Từ khóa: giãn cơ sâu, phẫu thuật nội soi ổ bụng, hiệu quả
Địa chỉ liên hệ: Ngô Thị Huê, Khoa Gây mê hồi sức và
chống đau, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: hue.bsdk.hmu@gmail.com
Ngày nhận: 20/9/2018
Ngày được chấp thuận: 12/10/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học công nghệ, phẫu thuật nội soi
cũng được phát triển không ngừng. So với
phẫu thuật mở thì phẫu thuật nội soi có được
nhiều ưu điểm như: hồi phục nhanh hơn, giảm
mức độ đau sau phẫu thuật, giảm thời gian
nằm viện, thẩm mỹ hơn và bệnh nhân hài lòng
hơn [1]. Phẫu thuật nội soi liên quan đến việc
bơm hơi vào trong khoang phúc mạc, việc này
làm tăng áp lực trong ổ bụng cùng với sự hấp
thu CO2 dẫn đến những biến loạn về tuần
hoàn, hô hấp, và tưới máu tại chỗ như: giảm
hồi lưu tĩnh mạch, giảm cung lượng tim, làm
tăng nhịp tim và huyết áp động mạch trung
bình, cũng như tăng kháng lực mạch máu
phổi [2]. Năm 2002 Hội phẫu thuật nội soi
Châu Âu đã đưa ra khuyến cáo về áp lực ổ
bụng trong thực hành lâm sàng phẫu thuật nội
soi là: áp dụng mức áp lực ổ bụng thấp nhất
có thể phẫu thuật được (mức khuyến cáo A)
[3]. Một khó khăn là áp lực ổ bụng thấp lại ảnh
hưởng đáng kể đến phẫu trường của phẫu
thuật viên. Trên thế giới trong vài năm gần
đây nhiều nghiên cứu cung cấp bằng chứng
cho rằng giãn cơ sâu có ưu việt trong việc duy
trì áp lực bơm hơi thấp mà vẫn đảm bảo điều
kiện phẫu thuật tốt, hơn nữa giảm được mức
độ đau sau phẫu thuật so với mức giãn cơ
vẫn đang được áp dụng trên lâm sàng hiện
nay [4 - 6]. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn và
hồi phục giãn cơ hoàn toàn sau giãn cơ sâu
thì cần hóa giải bằng thuốc sugammadex -
một thuốc giải giãn cơ mới và vẫn còn khá đắt
đỏ trên cả thị trường thế giới và Việt Nam.
Chính vì vậy việc sử dụng thường quy giãn cơ
sâu trong phẫu thuật nội soi vẫn còn nhiều
tranh cãi và cần nghiên cứu thêm. Tại Việt
Nam, vấn đề giãn cơ sâu vẫn còn khá mới mẻ
và chưa có nhiều nghiên cứu, vì vậy nghiên
cứu này được thực hiện với mục tiêu sau:
Đánh giá ảnh hưởng trên áp lực ổ bụng và
một số chỉ số hô hấp, huyết động của giãn cơ
TCNCYH 115 (6) - 2018 135
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
sâu so với giãn cơ trung bình ở bệnh nhân
phẫu thuật nội soi ổ bụng.
So sánh sự hồi phục giãn cơ và đau sau
phẫu thuật của nhóm giãn cơ sâu và nhóm
giãn cơ trung bình.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân ≥ 18 tuổi
và < 80 tuổi, đồng ý hợp tác và tham gia vào
nghiên cứu. Tình trạng sức khoẻ trước mổ
ASA I-III. Phẫu thuật nội soi ổ bụng theo
chương trình với thời gian phẫu thuật ≥ 45
phút. Loại khỏi nghiên cứu những bệnh nhân
không đồng ý tham gia nghiên cứu, BMI ≥ 30
kg/m2, phụ nữ có thai, dị ứng với thuốc gây
mê. Đưa ra khỏi nghiên cứu các bệnh nhân
không muốn tiếp tục tham gia nghiên cứu,
xuất hiện các biến chứng liên quan đến gây
mê, phẫu thuật hoặc quá trình điều trị sau mổ,
thời gian phẫu thuật < 45 phút.
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: can thiệp lâm sàng
ngẫu nhiên mù đơn có đối chứng.
- Địa điểm - Thời gian nghiên cứu: Khoa
Gây mê hồi sức và chống đau, Bệnh viện Đại
học Y Hà Nội từ tháng 3/2018 đến tháng
10/2018.
- Cỡ mẫu: chọn mẫu thuận tiện, 60 bệnh
nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu khi
vào phòng mổ được bốc thăm ngẫu nhiên vào
một trong 2 nhóm nghiên cứu:
+ Nhóm 1: giãn cơ sâu, duy trì TOF 0, PTC
1 - 2.
+ Nhóm 2: giãn cơ trung bình, duy trì TOF
1 - 2.
Cách thức tiến hành
- Trước mổ: làm các xét nghiệm tiền phẫu
cơ bản, khám gây mê trước ngày phẫu thuật.
- Tại phòng mổ
+ Bệnh nhân được theo dõi nhịp tim, huyết
áp, điện tim, SpO2, BIS, thở oxy qua mask 6 -
8 l/phút, theo dõi độ giãn cơ bằng máy TOF-
scan.
+ Gây mê nội khí quản, khởi mê bằng:
fentanyl 3 µg/kg tiêm tĩnh mạch, propofol-
TCIcp, rocuronium được tiêm ngay khi bệnh
nhân mất tri giác (mất phản xạ mi mắt) với liều
0,5 mg/kg. Theo dõi độ giãn cơ bằng TOF-scan
mỗi 15 giây. Khi TOF không có đáp ứng thì bắt
đầu đặt nội khí quản.
+ Dự phòng nôn: tiêm tĩnh mạch 8mg
ondansetron, 4mg dexamethason.
+ Trong mổ bệnh nhân được duy trì mê
bằng Propofol-TCI, nồng độ được điều chỉnh
sao cho BIS trong khoảng 40 - 60; fentanyl
được nhắc lại với liều 1,0 - 2,0 mg/kg theo
đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân, mỗi 20 - 30
phút nhắc lại một lần. Rocuronium: mỗi lần
tiêm 0,15 mg/kg tùy theo TOF, PTC để duy trì
TOF 0 và PTC 1 - 2 ở nhóm 1; TOF 1 - 2 ở
nhóm 2. TOF scan được đo tự động mỗi 5
phút.
+ Áp lực bơm hơi ban đầu của cả 2 nhóm
được cài đặt là 12 mmHg, sau đó giảm áp lực
bơm hơi từ từ, mỗi 5 phút giảm 1 mmHg đến
mức áp lực bơm hơi thấp nhất mà phẫu thuật
viên vẫn thực hiện được phẫu thuật thuận lợi,
ghi nhận lại giá trị áp lực ổ bụng đó.
+ Paracetamol 1g truyền tĩnh mạch,
ketorolac 30 mg tiêm tĩnh mạch khi bắt đầu
đóng da.
Ngừng fentanyl và rocuronium trước khi
kết thúc mổ khoảng 20 phút. Ngừng truyền
propofol khi đóng da xong.
Thuốc giải giãn cơ sugammadex được
tiêm ngay sau khi đóng da xong: 2 mg/kg: khi
TOF ≥ 1; 4 mg/kg: khi TOF 0, PTC ≥ 1.
136 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
X
+ Bệnh nhân được rút ống nội khí quản khi
đủ điều kiện.
+ Thời điểm theo dõi T0 - T14 lần lượt là
trước gây mê, trước phẫu thuật, trước bơm
hơi, sau bơm hơi 1ph, 5ph, 10ph, 15ph, 20ph,
25ph, 30ph, trước xả hơi, sau xả hơi 1ph,
5ph, 10ph.
Tại phòng hồi tỉnh:
+ Bệnh nhân được thở oxy, theo dõi các
chỉ số sinh tồn (mạch, huyết áp, SpO2, nhiệt
độ, nhịp thở), theo dõi chỉ số BIS, cài đặt chế
độ đo chỉ số TOF tự động liên tục mỗi 15 phút.
+ Đánh giá mức độ đau bụng, đau vai theo
thang điểm VAS (Visual analogue scale).
+ Đánh giá tác dụng không mong muốn.
+ Chuyển bệnh nhân khỏi phòng hồi tỉnh
khi Aldrete ≥ 8 điểm, không có điểm thành
phần nào là 1.
Tại bệnh phòng
+ Theo dõi đau tại thời điểm 24h và 48h
sau mổ, biến chứng hô hấp sau mổ cho đến
khi bệnh nhân xuất viện.
Tiêu chuẩn đánh giá
Các đặc điểm nhân trắc học, ASA, loại
phẫu thuật, thời gian phẫu thuật, số lượng các
thuốc mê sử dụng, áp lực ổ bụng, mức độ hài
lòng của phẫu thuật viên về phẫu trường, sự
thay đổi nhịp tim, huyết áp, áp lực đường thở
trong quá trình phẫu thuật, số lượng thuốc giải
giãn cơ được sử dụng, thời gian đạt TOF
70%, TOF 90%, TOF 100% sau tiêm thuốc
sugammadex, thời gian rút ống nội khí quản,
mức độ đau sau mổ (VAS).
Xử lý số liệu
Số liệu sau thu thập được phân tích, xử lý
bằng phần mềm SPSS 22.0. Kết quả được trình
bày dưới dạng trung bình, độ lệch chuẩn ( ± SD),
tỷ lệ %. So sánh các tỷ lệ % và giá trị biến định
tính bằng test χ2. So sánh giá trị trung bình
biến định lượng bằng test T-student. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
3. Đạo đức nghiên cứu
Các thuốc sử dụng trong nghiên cứu đã
được sử dụng rộng rãi. Nghiên cứu chỉ nhằm
mục tiêu tìm ra lợi ích của việc sử dụng giãn
cơ sâu trong phẫu thuật nội soi ổ bụng. Đối
tượng nghiên cứu được cung cấp đầy đủ
thông tin và ký chấp thuận tình nguyện tham
gia nghiên cứu. Mọi thông tin liên quan đến
đối tượng đều được mã hóa và đảm bảo bí
mật.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trên 60 bệnh
nhân phẫu thuật nội soi ổ bụng có chương
trình, chúng tôi thu được một số kết quả sau:
1. Một số đặc điểm liên quan đến bệnh
nhân và phân loại phẫu thuật
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân và phân loại phẫu thuật (n = 60)
(trình bày dưới dạng ± SD, Min - Max)
Chỉ số Nhóm
Nhóm 1
(n = 30)
Nhóm 2
(n = 30)
Chung
(n = 60)
p
Tuổi (năm)
48,8 ± 17,9
(20 - 73)
47,17 ± 12,67
(27 - 69)
47,98 ± 15,39
(20 - 73)
0,685
TCNCYH 115 (6) - 2018 137
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
X
Chỉ số
Nhóm
Nhóm 1
(n = 30)
Nhóm 2
(n = 30)
Chung
(n = 60)
p
Chiều cao (m)
1,58 ± 0,09
(1,45 - 1,78)
1,61 ± 0,08
(1,41 - 1,76)
1,59 ± 0,09
(1,41 - 1,78)
0,191
Cân nặng (kg)
56,73 ± 10,9
(38 - 80)
58,73 ± 9,14
(47 - 80)
57,73 ± 10,02
(38 - 80)
0,445
BMI (kg/m2)
22,46 ± 2,87
(15,6 - 28,3)
22,43 ± 1,95
(18,3 - 25,8)
22,44 ± 2,44
(15,6 - 28,3)
0,958
Giới
Nam (n, %)
Nữ (n, %)
11 (36,7)
19 (63,3)
16 (53,3)
14 (46,7)
27 (45)
33 (55)
0,194
ASA
I (n, %)
II (n, %)
17 (56,6)
13 (43,4)
24 (80)
6 (20)
41 (70)
19 (30)
0,052
Các loại phẫu thuật
Cắt túi mật (n, %)
PHTB* (n, %)
Cắt UNBT** (n, %)
Khác (n, %)
18 (60)
4 (13,3)
3 (10)
5 (16,7)
21 (70)
2 (6,7)
2 (6,7)
5 (16,6)
39 (65)
6 (10)
5 (8,3)
10 (16,7)
*phục hồi thành bụng, ** u nang buồng trứng
2. Đặc điểm gây mê và phẫu thuật
Bảng 2. Đặc điểm của gây mê và phẫu thuật (n = 60)
(trình bày dưới dạng ± SD, Min - Max)
Chỉ số Nhóm 1 (n = 30) Nhóm 2 (n = 30) p
Thời gian bơm hơi (phút) 51,63 ± 28,02 (30 - 140) 46,57 ± 25,6 (30 - 140) 0,468
Thời gian phẫu thuật (phút) 67,17 ± 28,89 (45 - 160) 61,7 ± 25,4 (45 - 150) 0,440
Thời gian gây mê (phút) 84,93 ± 32,02 (50 - 172) 78,90 ± 27,14 (55 - 160) 0,434
Fentanyl (mg) 0,27 ± 0,04 (0,15 - 0,42) 0,27 ± 0,03 (0,2 - 0,35) 0,975
Propofol (mg)
611,73 ± 221,98
(325 - 1257)
666,47 ± 297,32
(238 - 1500)
0,485
Esmeron (mg) 56,28 ± 18,62 (28 - 99) 39,0 ± 11,19 (25 - 65) 0,000
Nhóm
138 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3. Ảnh hưởng trên áp lực ổ bụng
B
ệ
n
h
n
h
â
n
Nhóm 2 Nhóm 1 mmHg
Biểu đồ 1. Biểu đồ phân bố áp lực ổ bụng của 2 nhóm (n = 60)
Áp lực ổ bụng trung bình của nhóm 1 là 9,5 ± 1,5 mmHg, nhóm 2 là 11,1 ± 1,26 mmHg (p =
0,000). Nhóm 1 có 24 bệnh nhân có áp lực ổ bụng ≤ 10 mmHg, nhóm 2 có 56,7% (17 bệnh nhân)
có áp lực bơm hơi 12 mmHg.
4. Ảnh hưởng lên huyết động
C
h
u
k
ỳ/
p
h
u
t
Nhóm 1 Mean
Thời gian
Nhóm 1 + SD
Nhóm 2 + SD
Nhóm 1 - SD
Nhóm 2 - SD Nhóm 2 Mean
Biểu đồ 2. Biểu đồ sự thay đổi nhịp tim của 2 nhóm (n = 60)
Biểu đồ 3. Biểu đồ sự thay đổi huyết áp trung bình của 2 nhóm (n = 60)
TCNCYH 115 (6) - 2018 139
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nhịp tim, huyết áp trung bình tăng ngay sau khi bơm hơi, mức độ tăng kéo dài đến khi xả hơi.
Sự thay đổi của nhịp tim, huyết áp giữa 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05).
5. Ảnh hưởng lên một số chỉ số hô hấp
Biểu đồ 4. Biểu đồ sự thay đổi áp lực đường thở đỉnh,
áp lực đường thở cao nguyên của 2 nhóm (n = 60)
Áp lực đường thở tăng ngay sau khi bơm hơi và duy trì đến khi xả hơi, sự thay đổi không có
sự khác biệt giữa 2 nhóm giãn cơ sâu và giãn cơ trung bình (p > 0,05).
6. Sự hồi phục giãn cơ
Bảng 3. Thuốc giải giãn cơ và thời gian hồi phục giãn cơ của 2 nhóm (n = 60)
Chỉ số
Nhóm 1
(n = 30)
Nhóm 2
(n = 30)
p
Sugammadex (mg)
119,6 ± 27,16
(76 - 198)
117,4 ± 18,21
(94 - 160)
0,714
TOF 70% (giây)
116,63 ± 63,3
(14 - 330)
71,53 ± 61,87
(0 - 240)
0,007
TOF 90% (giây)
159,9 ± 85,8
(30 - 390)
108,83 ± 65,38
(30 - 255)
0,012
TOF 100% (giây)
237,63 ± 138,74
(45 - 748)
159,67 ± 81,39
(49 - 360)
0,010
Thời gian rút nội khí quản
(phút)
8,63 ± 3,95
(3 - 15)
8,53 ± 3,71
(4 - 20)
0,92
Nhóm
Nhóm 1 có 2 bệnh nhân giải giãn cơ với liều sugammadex 4 mg/kg, nhóm 2 100% bệnh nhân
giải giãn cơ với liều 2 mg/kg. Không có trường hợp nào tái giãn cơ trong 1 giờ sau mổ.
140 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
7. Mức độ đau sau mổ
Biểu đồ 5. Biểu đồ mức độ đau sau mổ ở các thời điểm (n = 60)
Nhóm 1 có 3 /30 bệnh nhân đau vai (10%), nhóm 2 có 5/30 bệnh nhân đau vai (16,7%), sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,706).
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này giãn cơ sâu giúp
thực hiện phẫu thuật ở mức áp lực bơm hơi ổ
bụng thấp mà vẫn tối ưu hóa được phẫu
trường (p < 0,05). Giãn cơ sâu với áp lực bơm
hơi thấp không làm kéo dài thêm thời gian
phẫu thuật. Sau khi tiêm thuốc giải giãn cơ
thời gian đạt hết tác dụng thuốc giãn cơ hoàn
toàn (TOF ≥ 90%) kéo dài hơn nhóm giãn cơ
trung bình có ý nghĩa, tuy nhiên số lượng
thuốc sugammadex cần sử dụng và thời gian
rút được ống nội khí quản không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh
nhân. Không quan sát thấy sự tái giãn cơ sau
khi giải giãn cơ trong thời gian 1 giờ sau mổ,
không có bệnh nhân nào nôn hay buồn nôn.
Thay đổi nhịp tim, huyết áp, áp lực đường thở
trong quá trình bơm hơi cũng như mức độ đau
sau mổ và tỷ lệ đau vai được ghi nhận không
có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Có thể thấy giãn
cơ sâu giúp phẫu thuật viên hài lòng hơn.
Kết quả của chúng tôi tương tự với nhiều
tác giả khác trên thế giới: Kim và cộng sự
(2016) nghiên cứu trên 72 bệnh nhân phẫu
thuật đại trực tràng: giãn cơ sâu giảm được
áp lực bơm hơi xuống thấp hơn nhóm giãn cơ
trung bình (9,3 và 12 mmHg), điểm đau sau
mổ và tỷ lệ đau vai sau mổ cũng thấp hơn.
Hơn nữa, thời gian phục hồi đường tiêu hóa
bao gồm thời gian đánh hơi trung bình là 40
giờ so với 64 giờ tương ứng [7; 8]. Brunschot
(2017) nghiên cứu trên 34 bệnh nhân phẫu
thuật nội soi lấy thận ghép với áp lực ổ bụng
thấp cho kết quả: điều kiện phẫu thuật tốt hơn
có ý nghĩa ở nhóm giãn cơ sâu (4,5 so với
4,0), 4 bệnh nhân nhóm giãn cơ trung bình
xảy ra tai biến và 2 trong số đó phải chuyển
mổ mở. Số lượng thuốc giảm đau cần dùng
trong 48 giờ đầu sau mổ ở nhóm giãn cơ sâu
ít hơn [9]. Tác giả Bon-Wook Koo và cộng sự
(2016) nghiên cứu 64 bệnh nhân phẫu thuật
cắt túi mật nội soi bằng áp lực ổ bụng thấp
TCNCYH 115 (6) - 2018 141
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
cho kết quả: nhóm giãn cơ trung bình có
34,4% bệnh nhân cần nâng áp lực để đạt
được phẫu trường tối ưu so với 12,5% ở
nhóm giãn cơ sâu. Hơn nữa điều kiện phẫu
thuật cũng tốt hơn ở nhóm giãn cơ sâu
(68,8% đạt điều kiện tốt và tối ưu so với chỉ
34,4%) [10].
Giãn cơ sâu giúp phẫu thuật thực hiện
được ở áp lực thấp và điều kiện phẫu thuật tối
ưu hơn được quan sát rõ rệt ở nhiều nghiên
cứu. Ngoài ra những ưu điểm trên các chỉ số
khác chưa thật sự rõ ràng. Điều này được
quan sát thấy trong nghiên cứu của tác giả
Sam Baete và cộng sự (2017) trên 60 bệnh
nhân phẫu thuật giảm béo. Kết quả từ nghiên
cứu này không có sự khác biệt về điều kiện
phẫu thuật cũng như sự ảnh hưởng đến chức
năng hô hấp giữa 2 nhóm bênh nhân [11].
Năm 2016, Matias V. Madsen và cộng sự
nghiên cứu trên 99 bệnh nhân thấy rằng: tỷ lệ
đau vai ở nhóm giãn cơ sâu thấp hơn nhóm
giãn cơ trung bình (28,6% và 60% tương
ứng), tuy nhiên lại không có sự khác nhau về
mức độ đau vai, đau vết rạch, đau bụng dưới
hay đau nói chung giữa 2 nhóm [6]. Như vậy
để sử dụng thường quy giãn cơ sâu và mang
lại hiệu quả cho từng loại phẫu thuật nội soi
vẫn cần tiến hành thêm nhiều nghiên cứu
nữa.
V. KẾT LUẬN
Giãn cơ sâu giúp giảm áp lực ổ bụng
xuống đáng kể nhưng vẫn đảm bảo điều kiện
phẫu trường được tối ưu. Một số chỉ số hô
hấp, huyết động, điểm đau sau mổ thay đổi
không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (p > 0,05).
Lời cám ơn
Chúng tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới
các bệnh nhân cùng toàn thể nhân viên khoa
Gây mê hồi sức và Chống đau Bệnh viện Đại
học Y Hà Nội đã giúp đỡ chúng tôi trong quá
trình làm nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Colon Cancer Laparoscopic or Open
Resection Study Group (2005). Laparo-
scopic surgery versus open surgery for colon
cancer: short-term outcomes of a randomised
trial. The lancet oncology, 6(7), 477 - 484.
2. Umar A., Mehta S.K., Mehta N (2013).
Evaluation of hemodynamic changes using
different intra-abdominal pressures for laparo-
scopic cholecystectomy. Indian Journal of Sur-
gery, 75(4), 284 - 289.
3. Neudecker J., Sauerland S., Neuge-
bauer E et al (2002). The European Associa-
tion for Endoscopic Surgery clinical practice
guideline on the pneumoperitoneum for
laparoscopic surgery. Surgical endoscopy, 16
(7), 1121 - 1143.
4. Bruintjes M.H., Van Helden E.V., Braat
A.E et al (2017). Deep neuromuscular block to
optimize surgical space conditions during
laparoscopic surgery: a systematic review and
meta-analysis. BJA: British Journal of Anaes-
thesia, 118(6), 834 - 842.
5. Staehr-Rye K.A., Rasmussen S.L.,
Rosenberg J et al (2013). Optimized surgical
space during low-pressure laparoscopy with
deep neuromuscular blockade. Dan Med J,
60(2), A4579.
6. Madsen V.M., Istre O., Staehr-Rye K.A
et al (2016). Postoperative shoulder pain after
laparoscopic hysterectomy with deep neuro-
muscular blockade and low-pressure pneu-
moperitoneum: a randomised controlled trial.
European Journal of Anaesthesiology (EJA),
33(5), 341 - 347.
142 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
7. Kim H.M., Lee Y.K., Lee Y.K et al
(2016). Maintaining optimal surgical conditions
with low insufflation pressures is possible with
deep neuromuscular blockade during laparo-
scopic colorectal surgery: a prospective, ran-
domized, double-blind, parallel-group clinical
trial. Medicine, 95(9).
8. Martini H.C., Boon M., Bevers F.R et al
(2013). Evaluation of surgical conditions dur-
ing laparoscopic surgery in patients with mod-
erate vs deep neuromuscular block. British
Journal of Anaesthesia, 112(3), 498 - 505.
9. Brunschot O.D., Braat E.A., Jagt
F.P.M et al (2018). Deep neuromuscular
blockade improves surgical conditions during
low-pressure pneumoperitoneum laparoscopic
donor nephrectomy. Surgical endoscopy, 32
(1), 245 - 251.
10. Koo W.K., Oh Y.A., Seo S.K et al
(2016). Randomized clinical trial of moderate
versus deep neuromuscular block for low-
pressure pneumoperitoneum during laparo-
scopic cholecystectomy. World journal of sur-
gery, 40(12), 2898 - 2903.
11. Baete S., Vercruysse G., Laenen V.M
et al (2017). The effect of deep versus moder-
ate neuromuscular block on surgical condi-
tions and postoperative respiratory function in
bariatric laparoscopic surgery: a randomized,
double blind clinical trial. Anesthesia & Anal-
gesia, 124(5), 1469 - 1475.
Summary
EFFECT OF DEEP NEUROMUSCULAR BLOCKADE ON ABDOMINAL
LAPAROSCOPIC SURGERY
Neuromuscular block is frequently used in abdominal surgery to improve surgical conditions.
The evidence supporting routine use of deep neuromuscular block is still under debate. We aimed
to compare the effects of deep and moderate neuromuscular block in abdominal laparoscopic
surgery. A prospective, single-blind, randomized, controlled trial, was carried out between 3/2018
and 10/2018. 60 patients undergoing selective abdominal laparoscopic surgery were randomly
selected to achieve either deep neuromuscular block group (Train Of Four (TOF) 0 and 1 - 2 post-
tetanic count, n = 30) or