Nhiều nghiên cứu đã chứng minh có sự hiện diện của tế bào gốc/chưa biệt hóa trong tủy răng. Tuy nhiên
còn ít nghiên cứu về vị trí của những tế bào này trong tủy răng cũng như sự hoạt hóa và di chuyển của chúng
để đáp ứng với tổn thương tủy.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chứng tỏ sự hoạt hóa và di chuyển của dòng tế bào gốc/chưa biệt hóa sử
dụng mô hình nuôi cấy răng người. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đánh giá vai trò của nguyên bào sợi tủy răng
khi bị tổn thương trong tân tạo mạch máu, một quá trình diễn ra sớm trong lành thương của tủy răng và có thể
cần thiết cho sự di chuyển của tế bào chưa biệt hóa.
Kết quả: Qua mô hình nuôi cấy răng in vitro, nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tổn thương tủy răng
đã kích thích sự tăng sinh và di chuyển của tế bào gốc/chưa biệt hóa ở vùng xung quanh mạch máu đến vùng tổn
thương tủy. Khi bị tổn thương, nguyên bào sợi tủy răng tiết ra các yếu tố tăng trưởng mạch máu giúp tủy lành
thương hoàn toàn.
Kết luận: Tân tạo mạch máu có thể cần thiết cho các tế bào gốc/chưa biệt hóa di chuyển đến vùng có sang
thương.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 439 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt hóa và di chuyển của tế bào gốc tủy răng người: Vai trò trong lành tổn thương tủy răng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 63
HOẠT HÓA VÀ DI CHUYỂN CỦA TẾ BÀO GỐC TỦY RĂNG NGƯỜI:
VAI TRÒ TRONG LÀNH TỔN THƯƠNG TỦY RĂNG
Trần Hùng Lâm*, Odile Téclès**, Mathieu Sylvie**, About Imad**
TÓM TẮT
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh có sự hiện diện của tế bào gốc/chưa biệt hóa trong tủy răng. Tuy nhiên
còn ít nghiên cứu về vị trí của những tế bào này trong tủy răng cũng như sự hoạt hóa và di chuyển của chúng
để đáp ứng với tổn thương tủy.
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chứng tỏ sự hoạt hóa và di chuyển của dòng tế bào gốc/chưa biệt hóa sử
dụng mô hình nuôi cấy răng người. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đánh giá vai trò của nguyên bào sợi tủy răng
khi bị tổn thương trong tân tạo mạch máu, một quá trình diễn ra sớm trong lành thương của tủy răng và có thể
cần thiết cho sự di chuyển của tế bào chưa biệt hóa.
Kết quả: Qua mô hình nuôi cấy răng in vitro, nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tổn thương tủy răng
đã kích thích sự tăng sinh và di chuyển của tế bào gốc/chưa biệt hóa ở vùng xung quanh mạch máu đến vùng tổn
thương tủy. Khi bị tổn thương, nguyên bào sợi tủy răng tiết ra các yếu tố tăng trưởng mạch máu giúp tủy lành
thương hoàn toàn.
Kết luận: Tân tạo mạch máu có thể cần thiết cho các tế bào gốc/chưa biệt hóa di chuyển đến vùng có sang
thương.
Từ khóa: tế bào gốc/chưa biệt hóa, tủy răng, tổn thuơng tủy, tân tạo mạch máu.
ABSTRACT
ACTIVATION AND MIGRATION OF HUMAN DENTAL PULP STEM CELLS: ROLE IN DENTAL
PULP HEALING
Tran Hung Lam, Odile Téclès, Mathieu Sylvie, About Imad
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 63 - 68
Several lines of evidence strongly suggest the presence of resting progenitor/stem cells in the dental pulp.
However, little is known about activation and migration of these cells in response to pulp injury.
The objective of this work was to investigate the activation and migration of these progenitor/stem cells in
response to pulp injury in their tissue of origin. Besides, we also evaluated the role of pulp fibroblasts in
angiogenesis, an early step of pulp healing and may be necessary for migration of progenitor cells.
Results: Using a tooth culture model, our study demonstrated that pulp injury stimulated the proliferation
and migration of perivascular progenitor/stem cells to injury site. After pulp amputation, pulp fibroblasts
secreted angiogenic factors helping a complete pulp healing. Conclusion: Angiogenesis may be necessary for
migration of progenitor/stem cells.
Key words: progenitor/stem cells, dental pulp, pulp injury, angiogenesis.
MỞ ĐẦU
Trong nha khoa phục hồi, khi có những tổn
thương do bệnh lý hay điều trị, ngà phản ứng
hoặc ngà sửa chữa có thể được thành lập tùy
*: Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
**: Laboratoire IMEB, Khoa Nha, Đại học Méditerranée, Cộng hòa Pháp
Tác giả liên lạc: TS. Trần Hùng Lâm ĐT. 0907773375, Email: drtranhunglam@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 64
thuộc vào thể tích của tủy răng (Smith và cs,
1995; Tziafas và cs, 2000)(4,7). Sự hình thành này
giúp giới hạn những thương tổn gây ra bên
trong răng. Những nguyên bào ngà có thể sống
sót khi sang thương sâu răng nhẹ, chúng sẽ tiết
ra lớp ngà phản ứng. Trái lại, khi sang thương
lớn và lớp nguyên bào ngà bị phá hủy, chúng sẽ
được thay thế bởi một dòng tế bào mới nguồn
gốc tủy răng: nguyên bào ngà thế hệ thứ 2 chế
tiết ra lớp ngà sửa chữa. Nhiều nghiên cứu đã
chứng minh nguyên bào ngà thế hệ thứ 2 được
biệt hóa từ dòng tế bào gốc/chưa biệt hóa hiện
diện trong tủy răng (About và cs, 2000; Gronthos
và cs, 2000)(1,2). Tuy nhiên còn ít nghiên cứu về vị
trí của những tế bào gốc này trong tủy răng
cũng như sự hoạt hóa và di chuyển của chúng
để đáp ứng với tổn thương tủy(3). Mục tiêu của
nghiên cứu này nhằm chứng tỏ sự hoạt hóa và
di chuyển của dòng tế bào gốc/chưa biệt hóa sử
dụng mô hình nuôi cấy răng người. Bên cạnh
đó, chúng tôi cũng đánh giá vai trò của nguyên
bào sợi tủy răng khi bị tổn thương trong tân tạo
mạch máu, một quá trình diễn ra sớm trong lành
thương của tủy răng và có thể cần thiết cho sự di
chuyển của tế bào chưa biệt hóa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại la bô IMEB,
Khoa Nha, Đại học Méditerranée, Cộng hòa
Pháp từ tháng 09-2004 đến 09-2006.
Răng cối thu nhận từ bệnh nhân có điều trị
chỉnh nha (có sự đồng ý của bệnh nhân hay cha
mẹ nếu bệnh nhân dưới 18 tuổi và phù hợp với
luật pháp của Cộng hòa Pháp) được sử dụng để
nghiên cứu sự hoạt hóa và di chuyển của tế bào
gốc chưa biệt hóa sau khi tạo sang thương vào
tủy răng.
Răng nhổ được đem trực tiếp đến la bô
nghiên cứu trong môi trường MEM (minimum
essential medium) có thêm 300UI/ml penicillin,
300 g/ml streptomycin, 0.75 g/ml
amphotericin B. Răng được rửa sạch với dụng
cụ vô trùng sau khi đã loại bỏ dây chằng nha
chu và bao mầm răng. Sang thương tủy răng
được sửa soạn với mũi khoan kim cương
(đường kính 016) và tay khoan siêu tốc (300 000
vòng/phút) dưới nước bơm rửa vô trùng lạnh.
Răng không có tạo xoang và tạo xoang vào ngà
(không có tổn thương tủy) được sử dụng làm
nhóm chứng cho nghiên cứu tăng sinh tế bào.
Răng được nuôi cấy trong hộp nuôi cấy 4 lỗ
(Nonclon, Nunc, Roskilde, Đan Mạch). Phần
thân răng cố định trên một sợi kẽm, phần chóp
ngập trong dung dịch nuôi cấy nhưng không
chạm đáy hộp nuôi cấy. Môi trường nuôi cấy là
MEM có thêm 10% huyết thanh phôi bò,
200UI/ml penicillin, 200 g/ml streptomycin, 0.5
g/ml amphotericin B. Để khảo sát sự tăng sinh
tế bào, răng được nuôi trong môi trường MEM
có chứa BrdU (1mg/ml) trong 1 ngày. Sau đó, để
kiểm tra sự di chuyển tế bào, răng được nuôi cấy
trong môi trường có BrdU trong 1 ngày, sau đó,
tiếp tục nuôi trong cùng môi trường nhưng
không có BrdU trong 1 ngày, 2 tuần và 4 tuần.
Khảo sát mô học và hóa mô miễn dịch
Sau giai đoạn nuôi cấy, răng được cố định
trong dung dịch formol 4% và khử khoáng trong
dung dịch gồm sodium formiate 3,4% và acid
formic 17% đến khi khử khoáng hoàn toàn cho
xử lý mô học. Các răng được xử lý qua cồn và
xylene và cuối cùng được nhúng trong sáp
paraffin.
Hóa mô miễn dịch thực hiện trên các lớp cắt
bề dày 7m với kháng thể đơn dòng anti-BrdU.
Nhuộm máu với kit streptavidine-biotin (LSAB,
Dako Corp, CA) theo hướng dẫn của nhà sản
xuất. Mẫu chứng không có kháng thể nguyên
phát đều âm tính.
Phương pháp đánh giá vai trò của nguyên
bào sợi trong tân tạo mạch máu
Nguyên bào sợi tủy răng được lấy từ các
răng cối lớn thứ ba như đã mô tả trước đây
(About và cs., 2000)(1). Sau khi nhổ, răng được
rửa sạch và loại bỏ phần chóp. Tủy răng được
cắt thành những mảnh nhỏ và nuôi trong đĩa
nuôi cấy có đường kính 100mm (Becton
Dickison Labware, NJ, USA). Khi hộp đầy tế
bào, thực hiện chọn lọc tế bào với men
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 65
Trypsine/EDTA. Tế bào được nuôi cấy trong
môi trường có trộn thêm huyết thanh phôi bò
nồng độ 10%, 2mM glutamine, 100UI/ml
penicillin/streptomycine và 0,25 μg/ml
amphotericin B. Tế bào nội mô tĩnh mạch rốn
của người nuôi trong môi trường chuyên biệt
cung cấp bởi nhà sản xuất. Tủ nuôi cấy tế bào có
nồng độ CO2 là 5%. Môi trường nuôi cấy được
thay hằng ngày.
Nguyên bào sợi được nuôi trong môi trường
EGM. Các tổn thương nguyên bào sợi được thực
hiện trực tiếp với dao mổ vô trùng trên đĩa nuôi
cấy. Sau 5 giờ tiếp xúc với nguyên bào sợi bị tổn
thương, môi trường này được sử dụng để nuôi
tế bào nội mô trên khung ngoại bào Matrigel.
Môi trường nuôi cấy không có tiếp xúc với
nguyên bào sợi được sử dụng làm nhóm chứng.
Sau 24 giờ, sự thành lập cấu trúc dạng ống của
tế bào nội mô được đánh giá định lượng bằng
cách đo chu vi của cấu trúc dạng ống thành lập
trên các ảnh chụp từ kính hiển vi. Mỗi nhóm
chọn 30 quang trường một cách ngẫu nhiên để
thực hiện đo đạc. Chu vi cấu trúc dạng ống được
phân tích với phần mềm Scion Image (Scion
Corporation, Frederick, MD, USA).
Thí nghiệm trung hòa các yếu tố tăng
trưởng mạch máu
Hai kháng thể trung hòa có nồng độ
20μg/ml (R&D Systems, Lille, France) được sử
dụng là anti-VEGF và anti-FGF-2. Kháng thể
trung hòa được thêm vào trong môi trường nuôi
cấy có tiếp xúc với nguyên bào sợi tổn thương.
Môi trường này sau đó được sử dụng để nuôi tế
bào nội mô và đánh giá chu vi cấu trúc dạng ống
của tế bào nội mô như mô tả trên đây.
Phân tích thống kê
Tất cả các thí nghiệm đều được lặp lại 3 lần.
Test phi tuyến tính Mann-Whitney được sử
dụng để kiểm định các giả thuyết, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê khi giá trị p<0,05.
KẾT QUẢ
Sự tăng sinh tế bào gốc/chưa biệt hóa
Sau khi tạo sang thương vào tủy và nuôi cấy
với BrdU trong một ngày, nhuộm màu tập trung
ở nhân tế bào vùng quanh mao mạch. Hóa mô
miễn dịch sử dụng kháng thể anti-BrdU biểu
hiện một thang độ: nhuộm màu BrdU rất đậm ở
mạch máu bao quanh tổn thương và giảm khi xa
khỏi tổn thương (hình 1).
Hình 1: Tế bào gốc tăng sinh biểu hiện một thang độ
sau khi tạo sang thương vào tủy răng. Sau một ngày
nuôi cấy với BrdU, nhuộm màu tập trung ở nhân tế
bào vùng quanh mao mạch. Nhuộm màu đậm ở mao
mạch quanh sang thương (B và C) và giảm khi xa
sang thương (B và D). Chú thích: c: xoang sang
thương; d: ngà; p: tủy, mũi tên chỉ mạch máu. Thanh
thước đo ở hình A: 1mm; hình B: 100 m; hình C và
D: 50m.
Sự di chuyển của tế bào gốc/chưa biệt hóa
Sau khi nuôi cấy hai tuần, nhuộm màu tế
bào tách biệt khỏi mạch máu và ở gần vùng
tổn thương. Tại thời điểm 4 tuần, nhuộm màu
miễn dịch chỉ còn được thấy ở vùng tổn
thương (hình 2).
Mẫu răng chứng
Răng không có tạo tổn thương hay chỉ có
xoang vào ngà không có bất kì sự bắt màu nào
quanh mao mạch (hình 3).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 66
Hình 2: Sự di chuyển tế bào sau khi tạo sang thương. Răng được nuôi cấy trong môi trường có BrdU trong một
ngày sau đó răng tiếp tục nuôi cấy không có BrdU trong vòng 2 và 4 tuần. Sau 2 tuần, nhuộm màu tế bào được
thấy ở bên ngoài mạch máu gần tổn thương (A và B). Sau 4 tuần, nhuộm màu miễn dịch chỉ còn được thấy ở
vùng sang thương tủy. Thanh thước đo ở hình A và C: 1mm; hình B và D: 100m.
Hình 3: Nhóm răng chứng sau khi tạo xoang vào ngà. Răng nuôi cấy với BrdU trong 1 ngày để kiểm tra tính
đặc hiệu của kết quả quan sát được ở sang thương tủy. Không có sự nhuộm màu tế bào nào quan sát được.
Thanh thước đo hình A và B: 1mm; hình C và D: 50m.
Vai trò của nguyên bào sợi trong tân tạo
mạch máu
Nguyên bào sợi tủy răng kich thích tân tạo
mạch máu thông qua những yếu tố tăng trưởng
hòa tan được.
Trong hầu hết các trường hợp quan sát,
không có sự tổ chức của tế bào nội mô nuôi với
môi trường chứng, tức là không có tiếp xúc với
nguyên bào sợi (hình 4A). Một vài sự tái tổ chức
có thể được quan sát nhưng chu vi cấu trúc dạng
ống rất nhỏ. Môi trường nuôi cấy sau 5 giờ tiếp
xúc với nguyên bào sợi lành mạnh hay có tổn
thương gây nên những thay đổi rõ rệt về hình
thái tế bào nội mô và sự thành lập cấu trúc dạng
ống (Hình 4B và 4A). Tuy nhiên, chu vi cấu trúc
dạng ống hình thành trong môi trường tiếp xúc
với nguyên bào sợi tổn thương lớn hơn so với
nguyên bào sợi nguyên vẹn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 67
Việc đo chu vi cấu trúc dạng ống cho thấy
một sự tăng có ý nghĩa thống kê là 49,95%
(p<0,05) trong môi trường có tiếp xúc với
nguyên bào sợi so với môi trường chứng (không
có bất kì tiếp xúc nào với nguyên bào sợi). Hơn
thế nữa, chu vi cấu trúc dạng ống còn tăng
36,97% với môi trường có tiếp xúc với nguyên
bào sợi tổn thương so với nguyên vẹn (p<0,05)
(Hình 5A).
Chu vi cấu trúc dạng ống giảm khi thêm các
kháng thể trung hòa FGF-2 và VEGF
Việc thêm các kháng thể trung hòa FGF-2 và
VEGF vào môi trường tiếp với nguyên bào sợi
có tổn thương làm giảm chu vi cấu trúc dạng
ống so sánh với khi không có thêm kháng thể
trung hòa. Chu vi giảm 20,86% khi thêm kháng
thể trung hòa VEGF, giảm 31,14% khi thêm
kháng thể trung hòa FGF-2 và giảm 44,13% khi
thêm cả hai loại kháng thể trung hòa. Sụ khác
biệt có ý nghĩa thống kê khi cả hai loại kháng thể
được sử dụng (p<0,05) (Hình 5B).
Hình 4: Tác động của tiếp xúc gián tiếp giữa nguyên bào sợi và tế bào nội mô. Cấu trúc dạng ống của tế bào nội
mô được nuôi trong môi trường chứng (không có tiếp xúc với nguyên bào sợi) (A); có tiếp xúc với nguyên bào
sợi nguyên vẹn (B) và với nguyên bào sợi có tổn thương (C). Hình ảnh được chụp trực tiếp từ kính hiển vi đối
pha, thanh thước đo = 200μm.
Hình 5: Tác động của các yếu tố tăng trưởng mạch máu tiết ra bởi nguyên bào sợi trên chu vi cấu trúc dạng ống
của tế bào nội mô. A. Chu vi cấu trúc dạng ống được đo và thể hiện theo % của nhóm chứng (không có tiếp
xúc với nguyên bào sợi). B. Hiệu quả của kháng thể trung hòa. Chu vi cấu trúc dạng ống được đo và thể
hiện theo % của nhóm không có thêm kháng nguyên. * p<0,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 68
BÀN LUẬN
Khả năng đáp ứng của phức hợp ngà tủy với
các tình trạng bệnh lý hay tổn thương bằng cách
bồi đắp lớp ngà cấp ba đã được biết đến từ lâu.
Những tổn thương nhẹ kích thích nguyên bào
ngà sống sót tại vùng tổn thương tăng hoạt
động tổng hợp và chế tiết để tiết ra lớp ngà phản
ứng (Smith và cs, 1995; 2001)(5). Mặt khác, trong
trường hợp bệnh lý làm chết lớp nguyên bào
ngà, sự tái tạo ngà diễn ra qua việc thành lập lớp
ngà sửa chữa nhờ một thế hệ mới của các tế bào
giống nguyên bào ngà (odontoblast-like cells)
(Tziafas và cs, 1995; 2000) (6,7). Do đó, không như
ngà phản ứng, tạo thành ngà sửa chữa là một
chuỗi các quá trình sinh học phức tạp hơn, phụ
thuộc nhiều yếu tố bao gồm hiện diện của tế bào
gốc/chưa biệt hóa cũng như các tín hiệu sinh học
phân tử thuận lợi để kích thích quá trình tăng
sinh, di chuyển và biệt hóa của thế hệ tế bào
giống nguyên bào ngà.
Cơ chế tế bào và sinh học phân tử bên dưới
điều hòa chuỗi các sự kiện dẫn đến hình thành
ngà sửa chữa đã là đề tài của nhiều nghiên cứu
in vitro và in vivo (About và cs, 2000; Smith và
cs, 2001; Tziafas và cs, 2000)(1,5,7). Tuy nhiên vẫn
còn rất ít hiểu biết về những giai đoạn sơ khởi
của quá trình này, nhất là tăng sinh và di chuyển
của tế bào gốc/chưa biệt hóa cũng như tân tạo
mạch máu cần thiết cho lành thương tủy và di
chuyển tế bào.
Nghiên cứu này cho thấy sự hoạt hóa của tế
bào gốc/chưa biệt hóa đáp ứng với tổn thương
tủy. Điều này được chứng minh qua liên quan
giữa vị trí tổn thương và cường độ của nhuộm
màu tế bào, đậm ở gần tổn thương và giảm đi
khi rời xa tổn thương. Sau khi tế bào tăng sinh,
di chuyển tế bào đến vùng tổn thương cần thiết
để bảo vệ tủy nhờ sự thành lập ngà sửa chữa.
Kết quả còn chỉ rõ những tế bào này di chuyển
đến vùng tổn thương và thay thế nguyên bào
ngà hoại tử. Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi
chỉ ra sau khi bị tổn thương, nguyên bào sợi tủy
răng đóng một vai trò quan trọng trong tân tạo
mạch máu bằng cách tiết ra FGF-2 và VEGF,
kích ứng thành lập cấu trúc dạng ống của tế bào
nội mô. Kết quả được khẳng định với các kháng
thể trung hòa FGF-2 và VEGF làm giảm chu vi
cấu trúc dạng ống của tế bào nội mô. Chu vi cấu
trúc dạng ống đã được mô tả có thể phản ánh
khả năng tân tạo mạch máu (Salani và cs, 2000).
Hiệu ứng tân tạo mạch máu đạt được với môi
trường sau một thời gian tiếp xúc ngắn với
nguyên bào sợi (sau 5 giờ). Sự phóng thích yếu
tố tăng trưởng mạch máu diễn ra nhanh và thích
hợp với thay đổi diễn ra trong tủy sau tổn
thương. Một khi tủy răng bị tổn thương, sự di
chuyển tế bào chưa biệt hóa đến vùng tổn
thương cần thành lập mạch máu mới.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tổn
thương tủy răng đã kích thích sự tăng sinh và di
chuyển của tế bào gốc/chưa biệt hóa ở vùng
xung quanh mạch máu đến vùng tổn thương
tủy. Khi bị tổn thương, nguyên bào sợi tủy răng
tiết ra các yếu tố tăng trưởng mạch máu giúp
tủy lành thương hoàn toàn. Tân tạo mạch máu
có thể cần thiết cho các tế bào gốc/chưa biệt hóa
di chuyển đến vùng có sang thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. About I, Bottero MJ, de Denato P, Camps J, Franquin JC,
Mitsiadis TA (2000). Human dentin production in vitro. Exp
Cell Res 258(1):33-41.
2. Gronthos S, Mankani M, Brahim J, Robey PG, Shi S (2000).
Postnatal human dental pulp stem cells (DPSCs) in vitro and
in vivo. Proc Natl Acad Sci USA 97(25):13625-30.
3. Salani D, Taraboletti G, Rosano L, Di Castro V, Borsotti P,
Giavazzi R, Bagnato A (2000). Endothelin-1 induces an
angiogenic phenotype in cultured endothelial cells and
stimulates neovascularization in vivo. Am J Pathol
157(5):1703-11.
4. Smith AJ, Cassidy N, Perry H, Begue-Kirn C, Ruch JV, Lesot
H (1995). Reactionary dentinogenesis. Int J Dev Biol 39(1):273-
80
5. Smith AJ, Lesot H (2001). Induction and regulation of crown
dentinogenesis: embryonic events as a template for dental
tissue repair? Crit Rev Oral Biol Med 12(5):425-37.
6. Tziafas D (1995). Induction of reparative dentinogenesis in
vivo: a synthesis of experimental observations. Connect Tissue
Res 32(1-4):297-301.
7. Tziafas D, Smith AJ, Lesot H (2000). Designing new treatment
strategies in vital pulp therapy. J Dent 28(2):77-92.