Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 67
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU KẾT HỢP XƯƠNG GÃY ĐẦU DƯỚI 
XƯƠNG ĐÙI BẰNG NẸP VÍT KHÓA 
Trương Trí Hữu*, Nguyễn Thanh Huy** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Kết hợp xương bên trong vùng gãy lồi cầu đùi còn nhiều thách thức. Kết hợp xương vùng này theo 
thời gian đã qua các tiến bộ từ đương mổ chuẩn dần dần chuyển sang mổ nhỏ ít xâm nhập. Nẹp khóa đầu dưới 
xương đùi được sử dụng cho đường mổ nhỏ ít xâm nhập và cố định xương vững theo cấu trúc giải phẫu của 
xương vùng này 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị gãy đầu dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiền cứu. Từ tháng 01 năm 2012 đến tháng 12 năm 2012, tổng số 34 bệnh 
nhân được phẫu thuật kết hợp xương (03 BN tại bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ và 31 BN tại Bệnh 
Viện Chấn Thương Chỉnh Hình TP. HCM). Bệnh nhân được theo dõi tối thiểu 12 tháng và được đánh giá theo 
tiêu chuẩn của Schatzker và Lambert. 
Kết quả: Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu: có 16 nam, 18 nữ. Tuổi trung bình là 48 (từ 17 tuổi đến 84 tuổi). 
Thời gian theo dõi trung bình 14 tháng (nhỏ nhất 10 tháng, lớn nhất 19 tháng). Kết quả lành xương là 97,1%. 
Kết quả điều trị theo tiêu chuẩn Schatzker và Lampert: Tốt là 76,5%, khá là 14,7%, Trung bình là 1 bệnh nhân 
(2,9%), Kém là 2 bệnh nhân (5,9%). 
Kết luận: Điều trị gãy đầu dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa bước đầu có kết quả khả quan. Nẹp vít khóa kết 
hợp được hầu hết các loại gãy đầu dưới xương đùi và cả bệnh nhân loãng xương. 
Từ khóa: Nẹp vít khóa đầu dưới xương đùi. 
ABSTRACT 
PRIMARY OUTCOMES OF LOCKED PLATING OF DISTAL FEMORAL FRACTURE 
Truong Tri Huu, Nguyen Thanh Huy 
 Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 67 - 72 
Background: Internal Fixation of distal femoral fractures remains a challenge. The fiaxation of distal femoral 
fractures has undergone several changes during the past century, from standard-operative techniques to more 
recently minimally-invasive internal fixation. The The locking compression plates for distal femur (LCP DF) is an 
internal fixation plate that combines Less Invasive Stabilisation System (LISS) of the distal femur using an 
anatomically pre-contoured plate with stable locking screws. 
Objectives: To evaluate initial results of the treatment of distal femoral fracture with the locking 
compression plates for distal femur ( LCP DF) 
Methods: A perspectively descriptive study was employed to carry out this research from January, 2012 to 
December, 2012; 34 patients (including 3 at Cantho Central Hospital and 31 at Ho Chi Minh City Orthopedics 
Hospital) were operated to be observed and evaluated for at least 12 months- follow up by Schatzker and Lambert 
criteria. 
Results: Of the 34 patients, there were 16 males and 18 females. The average age was 48 (from the age of 17 
to 84). The average observation time was 14 months (minimally 10 months and maximally 19 months). The rate 
* Khoa Chi dưới Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM, ** Trường đại học Y Dược Cần Thơ 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trương Trí Hữu ĐT: 0918591576 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 68
of bone union was 97.1%. Using the Schatzker and Lambert criteria to evaluate, we attained good results with 
76.5%, fair with 14.7%, average with 2.9% (1 patient) and poor results with 5.9% (2 patients). 
Conclusion: The treatment of distal femoral fractures initially achieved high success rate. Locking plates 
united almost all kinds of distal femoral fractures, even in patients with osteoporosis. 
Key words: The locking compression plates for distal femur ( LCP DF) 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gãy đầu dưới xương đùi chiếm khoảng 7% 
các loại gãy xương đùi(16). Gãy lồi cầu đùi là gãy 
phạm khớp, do sự co kéo của các cơ tứ đầu đùi, 
chân ngỗng và sinh đôi làm cấp kênh mặt khớp, 
biến dạng gập góc và lệch trục cơ học chi dưới. 
Mục tiêu điều trị là phục hồi giải phẫu mặt khớp 
để phục hồi lại chức năng của khớp gối, giữ 
đúng trục cơ học và bảo tồn hệ thống gấp duỗi 
gối(13). Nếu không được chỉnh sửa mặt khớp và 
trục chi sẽ có biến chứng gập góc, cấp kênh mặt 
khớp, cứng gối dẫn đến hư khớp. 
Đến nay việc lựa chọn dụng cụ kết hợp 
xương trong điều trị gãy đầu dưới xương đùi 
vẫn là thử thách cho người thầy thuốc. Các 
dụng cụ dùng riêng cho gãy xương vùng đầu 
dưới đùi như: Nẹp lồi cầu hình chữ L 95o (95o 
Condylar Blade Plate), nẹp nâng đỡ lồi cầu 
(Condylar buttress plate), nẹp DCS (Dynamic 
Condylar Screw) đã được sử dụng nhưng 
cũng có những hạn chế riêng. Nẹp vít khóa 
LCP (Locking compression Plate) mới xuất 
hiện gần đây được coi như một bước tiến 
trong điều trị gãy xương nhất là vùng đầu 
dưới xương đùi có ưu điểm dễ áp dụng đương 
mổ nhỏ ít xâm nhập nhưng nắn kết hợp xương 
về giải phẫu và vững chắc. 
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu dùng 
nẹp vít khóa điều trị gãy đầu dưới xương đùi. 
Cantu R.V, Cornell C.N, Kolb W., Kao F.C., 
Kregor P.J, Ricci A.R(3,4,7,8,14) 
Nẹp vít khóa lồi cầu đùi bước đầu đã được 
sử dụng ở Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình 
TP.HCM và các Bệnh viện khác trong nước gần 
đây. Vấn đề cần thiết phải có một tổng kết về kết 
quả điều trị kết hợp xương gãy đầu dưới xương 
đùibằng nẹp vít khóa. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá kết quả lâm sàng và X quang điều 
trị kết họp xương gãy đầu dưới xương đùi bằng 
nẹp vít khóa. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 năm 
2012 đến tháng 12 năm 2012 tại Bệnh viện Chấn 
Thương Chỉnh Hình TP. HCM và Bệnh viện Đa 
Khoa Trung Ương Cần Thơ có 34 bệnh nhân. 
Thời gian theo dõi tối thiểu là 12 tháng, thời gian 
nghiên cứu trung bình là 14 tháng. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu tiền cứu mô tả 
Phương pháp phẫu thuật 
Chuẩn bị trước mổ 
Dự trù máu truyền tùy vào tình trạng bệnh 
nhân và tính chất của xương gãy. 
Kháng sinh dự phòng 
Thường dùng nhóm Cephalosporin thế hệ 
1,2 trước mổ khoảng 30 phút, duy trì sau mổ 7 
ngày. 
Tư thế bệnh nhân mổ 
Nằm ngửa, kê gối gấp. 
Ga rô hơi 
Trên đùi sát bẹn, áp lực từ 300 – 350mmHg, 
thời gian ngắn dưới 90 phút mỗi lần. 
Kỹ thuật mổ 
Đường mổ: đường bên ngoài, đặt nẹp phía 
bên lồi cầu ngoài. Bệnh nhân gãy hở thường có 
rách cơ tứ đầu trước đó, cắt lọc làm sạch vết 
thương trước rồi mở rộng theo đường rách cơ 
vào ổ gãy, mở bao khớp phía trước ngoài hay 
trước trong tùy vị trí vết thương để mổ nắn cố 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 69
định xương gãy. Nếu phạm khớp thì nắn, cố 
định mặt khớp tạm bằng kim K và/hoặc kèm 
theo vít xốp. Dùng màng hình tăng sáng kiểm 
tra khi mổ xem nắn hết các di lệch mặt khớp. Vị 
trí đặt kim K và vít xốp không làm cản vị trí đặt 
nẹp (hình 1). Mở vết thương tối thiểu đặt nẹp 
luồn dưới cơ, dùng C-arm kiểm tra. 
Hình 1: Vị trí bắt vít xốp và kim K(1) 
Cố định mặt khớp gãy vào thân xương bằng 
nẹp vít khóa, đặt mặt ngoài. Chiều dài của nẹp 
tùy vào đường gãy phía hành xương và thân 
xương. Lưỡi nẹp cách mặt khớp trước và mặt 
khớp dưới từ 1-1,5cm. Thân nẹp thẳng với trục 
của xương đùi. Nẹp được thiết kế riêng cho bên 
trái và bên phải nên cần chọn nẹp cho phù hợp. 
Sau khi đặt nẹp ta khoan và bắt vít theo kỹ thuật 
của nhà sản xuất(1) 
Kiểm tra trong lúc mổ kết quả nắn xương và 
mặt khớp bằng C-arm. Đặt ống dẫn lưu và đóng 
vết mổ từng lớp theo giải phẫu: lần lượt đóng cơ 
rộng giữa, túi trên cơ tứ đầu và bao khớp, và sau 
đó là các lớp nông hơn. Có thể bất động thêm 
bằng nẹp Zimmer nếu xương gãy nát nhiều và 
cảm nhận nẹp bất động không vững chắc lắm. 
Đánh giá kết quả điều trị theo tiêu chuẩn của 
Schatzker và Lambert(15) 
Tốt: duỗi hoàn toàn. 
+ Mất gấp gối ít hơn 10 độ. 
+ Không biến dạng khép hay dạng gối, 
không di lệch xoay. 
+ Không đau 
+ Mặt khớp tốt 
Khá: không thiếu hơn một trong các tiêu 
chuẩn sau: 
+ Không ngắn chỉ nhiều hơn 1cm. 
+ Biến dạng khép hay dạng gối dưới 10 độ. 
+ Mất gấp gối không hơn 20 độ. 
+ Đau ít 
Trung bình: bất cứ 2 tiêu chuẩn nào của khá. 
Xấu: bất cứ một trong các tiêu chuẩn nào sau 
đây: 
+ Gấp gối 90 độ hay ít hơn. 
+ Biến dạng khép hay dạng gối quá 15 độ. 
+ Cấp kênh mặt khớp. 
+ Đau gây mất cơ năng cho dù hình ảnh trên 
X-quang tốt ra sao. 
KẾT QUẢ 
Với 34 bệnh nhân được mổ kết hợp xương 
đầu dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa và theo 
dõi được chúng tôi có các số liệu sau: 
Tuổi 
Trung bình 48 tuổi (từ 17 tuổi đến 84 tuổi). 
Giới 
16 nam và 18 nữ. 
Phân độ gãy 
27 gãy kín, 7 gãy hở (3 độ I, 1 độ II, 3 độ IIIA). 
Phân loại gãy theo AO 
Biểu đồ 1: phân bố BN theo phân loại gãy AO. 
Lành xương 
33 bệnh nhân lành xương (97,1%), có 1 bệnh 
nhân không lành (2,9%). 
Thời gian lành xương 
Thời gian lành xương trung bình 13 tuần. 
Kết quả gấp gối 
Kết quả gấp gối trung bình là 1230 (gấp gối 
nhỏ nhất 450, gấp gối lớn nhất 1400). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 70
Kết quả duỗi gối 
Kết quả duỗi gối trung bình là 2,20 (duỗi gối 
nhỏ nhất -100, duỗi gối lớn nhất 50). 
Bảng 1: Biến chứng 
Biến chứng Số BN Tỉ lệ % 
Không lành xương 1 2,9 
Ngắn chi 3 8,8 
Kênh mặt khớp 1 2,9 
Vẹo gối 1 2,9 
Nhiễm trùng 0 0 
Di lệch thứ phát sau mổ 0 0 
Gãy nẹp 0 0 
Bảng 2: Kết quả điều trị theo tiêu chuẩn Schatzker và 
Lambert 
Kết Quả Số BN Tỉ Lệ % 
Tốt 26 76,5 
Khá 5 14,7 
Trung bình 1 2,9 
Kém 2 5,9 
Ca lâm sàng 
Bệnh nhân nam 61 tuổi, gãy liên lồi cầu đùi 
T, loại C3. 
Hình 2: X-quang trước và sau mổ 
Hình 3: X-quang can xương sau 12 tuần và phục hồi 
chức năng 
BÀN LUẬN 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu này là 48 
tuổi. Tuổi từ 18 đến 60 có 22 bệnh nhân (chiếm tỉ 
lệ 64,7%). Đây là độ tuổi lao động và tham gia 
giao thông nhiều nên khả năng bị tai nạn gãy 
xương chiếm tỉ lệ cao nhất. 
Nguyên nhân do tai nạn giao thông vẫn là 
chủ yếu trong nghiên cứu này 27 trên tổng số 34 
BN (tỉ lệ 79,5%). Nguyên nhân do tai nạn giao 
thông cũng lànguyên nhân chính trong các 
nghiên cứu của Nguyễn Quốc Trị(12), Hàn Khởi 
Quang(5), Lê Nguyên Khải(9) và Nguyễn Phương 
Nam(11). Đây là cơ chế có năng lượng cao gây 
thương tổn xương và mô mềm nặng 
Trong 34 bệnh nhân nghiên cứu, gãy loại C 
là 30/34 bệnh nhân (tỉ lệ 88,2%). Trong đó loại 
gãy C1 là 6, C2 là 14 và C3 là 10. gãy loại C vẫn 
chiếm đa số trong các nghiên cứu nên xương 
thường gãy phức tạp. 
Qua điều trị kết hợp xương 34 bệnh nhân 
gãy đầu dưới xương đùi bằng nẹp vít khóa, có 33 
bệnh nhân lành xương và một bệnh nhân không 
lành xương (tỉ lệ 2,9%). Bệnh nhân không liền 
xương là một trường hợp gãy hở độ IIIA, loại C3. 
Bệnh nhân được cắt lọc và kết hợp xương bằng 
khung cố định ngoài khoảng 7 ngày trước khi 
được mổ kết hợp xương bằng nẹp vít khóa. 
Trong quá trình phẫu thuật đặt nẹp vít khóa, 
bệnh nhân có mất xương nhưng vết thương 
không tốt lắm nên không có ghép xương. Cần 
ghép xương bổ sung cho BN này 
Trong 33 bệnh nhân lành xương: thời gian 
lành xương trung bình là 13 tuần. Thời gian lành 
xương nhiều nhất là khoảng từ 12 đến 14 tuần có 
22/33 chiếm tỉ lệ 66,67%. Cá biệt có 1 bệnh nhân 
lành xương sau 26 tuần. Bệnh nhân này là nữ, 
gãy loại C3, lớn tuổi và có loãng xương, cơ địa 
bệnh nhân cũng nhỏ con, trong quá trình phẫu 
thuật thì không có ghép xương. Thời gian lành 
xương theo phân loại gãy AO thì nhóm C3 có 
thời gian lành xương trung bình dài nhất 15,67 
tuần. Và khi chúng tôi so sánh thời gian lành 
xương của nhóm C3 với các nhóm khác thì cho 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 71
kết quả khác biệt có ý nghĩa thông kê (p<0,01). Vì 
gãy C3 là loại gãy phức tạp cả vùng hành xương 
và lồi cầu đùi nên thời gian lành xương có thể 
kéo dài hơn. 
Biên độ gấp gối trung bình trong nghiên cứu 
này là 1230. Đa số bệnh nhân có biên độ gấp gối 
trong khoảng từ 1200 đến 1350, số bệnh nhân 
trong nhóm này la 28/34 bệnh nhân ( tỉ lệ 
74,35%). Có 2 bệnh nhân có biên độ gấp gối 450, 
cả hai bệnh nhân là nữ. Một bệnh nhân >60 tuổi, 
thời gian lành xương 12 tuần, nhưng phim X- 
Quang kiểm tra phát hiện nẹp đặt thấp nên có 
vít phạm vào khớp nên vận động bị cản trở. 
Bệnh nhân được phát hiện vít phạm vào khớp 
khi chụp X-Quang kiểm tra sau mổ và có chỉ 
địnhmổ lại nhưng gia đình và bệnh nhân không 
đồng ý. Sau đó, bệnh nhân có qua các bệnh viện 
khác kiểm tra nhưng cũng chưa được xử lý gì, 
hiện tại thì xương bệnh nhân đã lành tốt và thời 
gian theo dõi là 13 tháng. Bệnh nhân thứ hai 30 
tuổi, thời gian theo dõi 10 tháng và đây là bệnh 
nhân không liền xương. 
Biên độ duỗi gối trung bình trong nghiên 
cứu này là 2,20. Số bệnh nhân duỗi gối từ 00 đến 
50 là 32/34 bệnh nhân (tỉ lệ 94,11%). Hầu hết bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều duỗi 
gối được hoàn toàn, trừ một bệnh nhân hạn chế 
duỗi gối khoảng 50 và một bệnh nhân hạn chế 
khoảng 100. Hai bệnh nhân bị hạn chế duỗi gối 
cũng là hai bệnh nhân gấp gối được 450. Với 
bệnh nhân bị vít phạm vào khớp, nếu được mổ 
lấy dụng cụ và tập lại gối thì tình trạng có thể cải 
thiện tốt hơn cả về gấp và duỗi gối. Còn bệnh 
nhân không liền xương thì sau khi được ghép 
xương và nếu xương lành, tập vật lý trị liệu 
không còn đau thì cũng có thể cải thiện được vì 
bệnh nhân cũng hạn chế nhẹ. 
Kết quả điều trị của chúng tôi theo tiêu 
chuẩn của Schatzker và Lambert: Tốt : có 26/34 
bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 76,5%. Khá: có 5/34 bệnh 
nhân, chiếm tỉ lệ 14,7%. Trung bình: có 1/34 bệnh 
nhân, chiếm tỉ lệ 2,9%. Kém: có 2 bệnh nhân, 
chiếm tỉ lệ 5,9%. Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân đạt 
tiêu chuẩn khá tốt trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 91,2 %. Đây là một kết quả khả quan trong 
điều trị gãy đầu dưới xương đùi. 
KẾT LUẬN 
Nẹp vít khóa có thể dùng để kết hợp xương 
tất cả các loại gãy đầu dưới xương đùi (ngoại trừ 
gãy mảnh nhỏ phía sau lồi cầu trong, dạng B3), 
cả gãy kín, gãy hở độ I, II, IIIA được phẫu thuật 
sớm 
Sử dụng nẹp vít khóa trong điều trị gãy đầu 
dưới xương đùi cho kết quả liền xương và kết 
quả điều trị rất cao: lành xương 97,1%, kết quả 
điều trị đạt khá-tốt là 91,2%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Allgower M (2000). Technique guide for Less Invasive 
Stabilization System (LISS). In: Muller ME. Original 
Instuments and implants of the Association for the study of 
internal fixation - AO ASIF. pp: 12-31, 3rd edition. Springer-
Verla, Berlin. 
2. Anglen J, Kyle RF, Marsh JL (2009). Locking plates for 
extremity fractures. J Am Acad Orthop Surg, 17(7), pp. 465-
472. 
3. Cantu RV, Koval KJ (2006). The use of locking plates in 
fracture care. J Am Acad Orthop Surg, 14(3), pp. 183-190. 
4. Cornell CN, Ayalon O (2011). Evidence for success with 
locking plates for fragility fractures. HSS J, 7(2), pp. 164-169. 
5. Hàn Khởi Quang (2000). Điều trị phẫu thuật gãy đầu dưới 
xương đùi tại tuyến tỉnh,Luận văn chuyên khoa cấp II. Đại 
Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. 
6. Kao FC, Tu YK, Su JY (2009). Treatment of distal femoral 
fracture by minimally invasive percutaneous plate 
osteosynthesis: comparison between the dynamic condylar 
screw and the less invasive stabilization system. J Trauma, 
67(4), pp.719-726. 
7. Kolb W, Guhlmann H, Windisch C (2008). Fixation of distal 
femoral fractures with the Less Invasive Stabilization System: 
a minimally invasive treatment with locked fixed-angle 
screws. J Trauma, 65(6), pp. 1425-1434. 
8. Kregor PJ, Stannard JA, Zlowodzki M (2004). Treatment of 
distal femur fractures using the less invasive stabilization 
system:surgical experience and early clinical results in 103 
fractures. J Orthop Trauma, 18(8), pp. 509-520. 
9. Lê Nguyên Khải (2009). Kết quả bước đầu điều trị phẫu thuật 
gãy nát đầu dưới xương đùi bằng hai nẹp. Luận án chuyên 
khoa cấp II, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. 
10. Müller ME, Nazarian J, Koch P (1990). Classification of 
fractures of distal femur, In:Muller ME. The comprehensive 
classification of fractures of long bones, pp 56-58 Springer-
Verlag, Berlin. 
11. Nguyễn Phương Nam (2013). Kết quả điều trị gãy đầu dưới 
xương đùi bằng sử dụng nẹp khóa kết hợp xương tại bệnh 
viện Bà Rịa. Kỷ yếu hội nghị khoa học thường niên lần thứ 
XX, Hội chấn thương chỉnh hình TP.HCM, tr. 84-90. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 72
12. Nguyễn Quốc Trị (2003). Cắt lọc và kết hợp xương cấp cứu 
trong điều trị gãy hở đầu dưới xương đùi. Luận văn chuyên 
khoa cấp II, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. 
13. O'Brien PJ, Blachut PA (2001). Fracture of the Distal femur. In: 
Bucholz RW. Rockwood and Green's Fractures in Adults. Vol 
2, Sixth edition pp:1916-1935, Lippincott Williams& 
Wilkin,United States. 
14. Ricci AR, Yue JJ, Taffet R (2004). Less Invasive Stabilization 
System for treatment of distal femur fractures. Am J Orthop 
(Belle Mead NJ), 33(5): 250-255. 
15. Schatzker J, Lambert DC (1979). Supracondylar fractures of 
the femur. Clin Orthop Relat Res, 138: 77-83. 
16. Schatzker J (1998). Fractures of the distal femur revisited. Clin 
Orthop Relat Res, 347: 43-56. 
Ngày nhận bài báo: 4/9/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 9/9/2014 
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015