Hội chứng Brugada được xác định là 1 nguyên nhân quan trọng gây đột tử đặc biệt ở Nhật Bản và các nước
Đông Nam Á. Người mang bệnh lý này có thể có nhiều loạn nhịp tim khác nhau: nhanh thất và rung thất,
thường xảy ra trong lúc nghỉ ngơi, lúc ngủ hoặc sinh hoạt bình thường.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, điện tâm đồ, khả năng tạo rung thất bằng khảo sát điện
sinh lý trên những bệnh nhân với điện tâm đồ hội chứng Brugada.
Kết quả: 37 bệnh nhân trong đó có 36 bn nam và 1 bn nữ, tuổi trung bình 42 ± 12,5 tuổi (17-76) tình
cờ phát hiện điện tâm đồ bất thường của hội chứng Brugada. Biểu hiện lâm sàng các bn nghi ngờ có rối
loạn nhịp: với biểu hiện đa phần là hồi hộp 23 ca, trống ngực 8 ca, đau ngực 4 ca, ngất 2 ca. ECG bề mặt:
kiểu type I chiếm 35% (12), type II chiếm 48,7% (21), type III chiếm 16,3% (4). Kết quả có 15 trường hợp
dương tính (40.5%), trong đó type I có 50% (6), type II có 42,9% (9), type III 0% (0). Vị trí kích thích
buồng thoát thất phải 73,4% (11), vị trí mỏm thất phải 26,6% (4). Số lượng kích thích để tạo cơn loạn nhịp:
1 kích thích 26,6%, 2 kích thích 73,4%.
Kết luận: HC BRUGADA gặp ở bn nam nhiều hơn nữ giới, thường gặp ở tuổi trung niên. Trường hợp
nguy cơ cao: tiền căn gia đình, ECG type I lúc bình thường, nam giới. Kích thích tạo cơn loạn nhịp thất ở vị trí
buồng thoát có tỷ lệ cao hơn ở mỏm. Tỷ lệ tạo cơn loạn nhịp thất của bv chúng tôi là 40%. Các trường hợp bn có
ECG h/c Brugada (kể cả 3 type) nên được phân tầng đánh giá nguy cơ bằng khảo sát điện sinh lý.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả khảo sát điện sinh lý ở những bệnh nhân có điện tâm đồ Brugada ở Bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 32
KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐIỆN SINH LÝ Ở NHỮNG BỆNH NHÂN
CÓ ĐIỆN TÂM ĐỒ BRUGADA Ở BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Nguyễn Đức Công*, Trương Quang Khanh*, Lê Hà Trung*
TÓM TẮT
Hội chứng Brugada được xác định là 1 nguyên nhân quan trọng gây đột tử đặc biệt ở Nhật Bản và các nước
Đông Nam Á. Người mang bệnh lý này có thể có nhiều loạn nhịp tim khác nhau: nhanh thất và rung thất,
thường xảy ra trong lúc nghỉ ngơi, lúc ngủ hoặc sinh hoạt bình thường.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, điện tâm đồ, khả năng tạo rung thất bằng khảo sát điện
sinh lý trên những bệnh nhân với điện tâm đồ hội chứng Brugada.
Kết quả: 37 bệnh nhân trong đó có 36 bn nam và 1 bn nữ, tuổi trung bình 42 ± 12,5 tuổi (17-76) tình
cờ phát hiện điện tâm đồ bất thường của hội chứng Brugada. Biểu hiện lâm sàng các bn nghi ngờ có rối
loạn nhịp: với biểu hiện đa phần là hồi hộp 23 ca, trống ngực 8 ca, đau ngực 4 ca, ngất 2 ca. ECG bề mặt:
kiểu type I chiếm 35% (12), type II chiếm 48,7% (21), type III chiếm 16,3% (4). Kết quả có 15 trường hợp
dương tính (40.5%), trong đó type I có 50% (6), type II có 42,9% (9), type III 0% (0). Vị trí kích thích
buồng thoát thất phải 73,4% (11), vị trí mỏm thất phải 26,6% (4). Số lượng kích thích để tạo cơn loạn nhịp:
1 kích thích 26,6%, 2 kích thích 73,4%.
Kết luận: HC BRUGADA gặp ở bn nam nhiều hơn nữ giới, thường gặp ở tuổi trung niên. Trường hợp
nguy cơ cao: tiền căn gia đình, ECG type I lúc bình thường, nam giới. Kích thích tạo cơn loạn nhịp thất ở vị trí
buồng thoát có tỷ lệ cao hơn ở mỏm. Tỷ lệ tạo cơn loạn nhịp thất của bv chúng tôi là 40%. Các trường hợp bn có
ECG h/c Brugada (kể cả 3 type) nên được phân tầng đánh giá nguy cơ bằng khảo sát điện sinh lý.
Từ khóa: Hội chứng Brugada, khảo sát điện sinh lý.
ABSTRACT
RESULTS OF PROGRAMMED VENTRICULAR STIMULATION BY ELECTROPHYSIOLOGICAL
TEST ON FORTUITOUS PATIENTS WITH BRUGADA ECG
Nguyen Đuc Cong, Truong Quang Khanh, Le Ha Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 32 - 37
Brugada syndrome was identified as an important reason causing sudden death especially in Japan and
Southeast Asia. People with this pathology may have different arrhythmias: ventriculartachycardia or
ventricularfibrilation, often occur during rest, sleep or normal activities.
Objectives of research: Describe the clinical features, electrocardiogram, the ability to create ventricular
arrhythmia on the management of electrophysiological test of patients with Brugada syndrome.
Results: 37 patients including 36 men and 1 woman, average age 42 ± 12.5 years (17-76) accidentally
discovered abnormal electrocardiogram of Brugada syndrome. Clinical manifestations of the disorder suspect
arrhythmia: the most often expression was nervousness (23 cases), palpitate 8 cases, chest pain 4 cases, faint 2
cases. Surface ECG: type I accounts for 35% (12), type II accounts for 48.7% (21), accounting for 16.3% type III
(4). Results are positive 15 cases (40.5%), in which type I 50% (6), type II 42.9% (9), type III 0% (0). Location
* Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí minh
Tác giả liên lạc: BS CK1. Lê Hà Trung, ĐT: 0908384410 Email: lehatrungbs78@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 33
stimulation: right ventricular chamber 73.4% (11), right outflow chamber 26.6% (4). Number of stimulation to
create arrhythmias: one stimulation 26.6%, 73.4% second stimulus.
Conclusions: In BRUGADA syndrome men met more women, usually occurs in middle age. High-risk
cases: family history SCD, spontaneous type I ECG at normal, men. Stimulate creation attack arrhythmias right
outflow chamber higher than the tip. The rate of loss to create attack arrhythmias we are 40%. Individuals have
ECG Brugada syndrome (including 3 type) should be stratified by risk assessment survey with electrophysiology
test.
Key words: Brugada syndrome, electrophysiological test.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1992, hai anh em Brugada đã báo cáo 1
nhóm bệnh nhân (bn) có rung thất không rõ
nguyên nhân với điện tâm đồ đặc trưng có các
đặc điểm: hình dạng block nhánh phải, và đoạn
ST chỉ chênh lên ở các chuyển đạo trước ngực
phải(1). Từ đó hội chứng Brugada được xác định
là 1 nguyên nhân quan trọng gây đột tử đặc biệt
ở Nhật Bản và các nước Đông Nam Á. Hội
chứng Brugada gây ra rối loạn nhịp tim di
truyền do có sự đột biến trong kênh Natri của tế
bào cơ tim do gen SCN5A quy định. Những
người mang bệnh lý này có thể có nhiều loạn
nhịp tim khác nhau: nhịp nhanh trên thất, rối
loạn dẫn truyền nhĩ thất, nhanh thất và rung
thất, thường xảy ra trong lúc nghỉ ngơi, lúc ngủ
hoặc sinh hoạt bình thường (nhịp tim chậm).
Bệnh lý được đặc trưng với điện tâm đồ như
trên và không có bệnh tim cấu trúc. Những
khoảng ngất hay cơn hồi hộp có thể là những
triệu chứng của bệnh để cảnh báo có thể xảy ra
đột tử do rối loạn nhịp. Điều trị được nhiều
người đồng ý là cấy máy phá rung (ICD) ở
những bệnh nhân có hội chứng Brugada đã
được hồi sinh sau rung thất.
Việc đánh giá tiếp cận 1 trường hợp có biểu
hiện ECG của hội chứng Brugada đã được anh
em Brugada đưa ra trên báo Circulation 2005:
Bảng 1: Tiếp cận với bệnh nhân đã bị hoặc nghi ngờ hội chứng Brugada.
Biểu hiện lâm sàng Điện tâm đồ Test thuốc Chẩn đoán Phân loại nguy cơ tiếp
Âm tính Vô căn Bình thường
Dương tính Hội chứng Brugada
Rung thất tự phát, đã
được hồi sức, tim bình
thường
Chênh vòm lên tự nhiên Hội chứng Brugada
Không cần khảo sát điện
sinh lý
Âm tính Nguyên nhân khác Bình thường
Dương tính Hội chứng Brugada
Ngất không rõ nguyên
nhân, tim bình thường
Chênh vòm lên tự nhiên Hội chứng Brugada
Không cần khảo sát điện
sinh lý
Âm tính Không phải người mang
mầm bệnh
Bình thường
Dương tính Hội chứng Brugada
Những thành viên trong
gia đình không có triệu
chứng
Chênh vòm lên tự nhiên Hội chứng Brugada
Không cần khảo sát điện
sinh lý
Âm tính Không phải người mang
mầm bệnh
Nghi ngờ (týp 2 hoặc týp
3)
Dương tính Hội chứng Brugada
Bệnh nhân không có
triệu chứng, điện tim
nghi ngờ hoặc xác định
Chênh vòm lên tự nhiên
(týp 1)
Hội chứng Brugada
Không cần khảo sát điện
sinh lý
Và cuối cùng là thông qua hội nghị đồng
thuận lần thứ 2 năm 2005, các tác giả đã đồng
thuận phác đồ:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 34
Ở Việt Nam số trường hợp bệnh nhân có
điện tâm đồ hội chứng Brugada nhưng không
có triệu chứng, tình cờ được phát hiện qua
khám sức khoẻ ngày càng nhiều. Tuy nhiên có
nhiều tranh cãi làm thế nào tiếp cận bệnh nhân
có ECG giống hội chứng Brugada mà chưa bao
giờ có rung thất. Vấn đề này vẫn còn nhiều
tranh cãi trên thế giới, những bệnh nhân này sẽ
phải thực hiện các test: chụp mạch vành, holter
điện tim, siêu âm tim, ECG gắng sứcvà thực
hiện test điện sinh lý, thuốc (Flecainide,
ajmaline). Chính vì vậy, qua đánh giá lâm sàng,
kiểu điện tim và kết quả test điện sinh lý (VT
study- programmed ventricular stimulation -
PVS) của 37 trường hợp có điện tâm đồ hội
chứng Brugada tại bệnh viện Thống Nhất từ
năm 2006 – 2009, chúng tôi hy vọng rằng những
nhận xét ban đầu này sẽ giúp rút ra những kinh
nghiệm về đánh giá nguy cơ loạn nhịp thất, từ
đó có chỉ định điều trị máy phá rung thích hợp
ở những trường hợp có điện tâm đồ giống hội
chứng Brugada.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, điện tâm đồ, khả năng tạo rung thất
bằng khảo sát điện sinh lý trên những bệnh
nhân với điện tâm đồ hội chứng Brugada.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả bệnh nhân có biểu hiện điện tâm đồ
hội chứng Brugada đã được thực hiện khảo sát
điện sinh lý và thực hiện VT study tại bệnh viện
Thống Nhất từ 2006 đến 2009.
Phương pháp
Các bệnh nhân có điện tâm đồ hội chứng
Brugada hoặc nghi ngờ giống hội chứng
Brugada đều được khám lâm sàng, hỏi bệnh
sử và tiền căn đột tử ở gia đình, thực hiện các
xét nghiệm thường quy: sinh hoá, ion đồ,
cholesterol, công thức máu, đo điện tâm đồ,
holter ECG (1 số ca), siêu âm tim, X quang
ngực để đánh giá nguy cơ tim mạch của từng
trường hợp.
Tiêu chuẩn điện tâm đồ: điện tâm đồ được
coi như là điển hình nếu có dạng r’ với điểm J
chênh cao > 0,2 mV và ST chênh xuống chậm và
chấm dứt với sóng T âm hoặc phẳng ở chuyển
đạo V1 V2 đôi khi ở V3. Còn lại 2 kiểu điện tâm
đồ với ST chênh lõm yên ngựa là kiểu không
điển hình – nghi ngờ.
ECG hội chứng
Brugada type I
Có triệu chứng Không có triệu
chứng
Thoát chết do
rung thất
Ngất
ICD (ClassI) Loại trừ nguyên
nhân do tim
Nếu có nguyên
nhân khác
theo dõi
Nếu không
ICD (ClassI)
Có tiền căn gia
đình đột tử
nghi do
Brugada
Không có tiền
căn gia đình
Khảo sát điện
sinh lý (Class
IIa)
Nếu dương tính
ICD (Class
IIa)
Nếu âm tính
theo dõi sát
Khảo sát điện
sinh lý ( Class
IIa)
Nếu dương tính
ICD (Class
IIa)
Nếu âm tính
theo dõi sát
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 35
Test điện sinh lý: tất cả bn đều được trải qua
khảo sát điện sinh lý trong buồng tim, quy trình:
BN nhịn ăn sáng, không dùng thuốc ảnh hưởng
nhịp tim, được gây tê cục bộ ở đùi (vị trí đưa
catheter vào tĩnh mạch), kích thích thất phải
theo chương trình (PVS) với kỹ thuật kinh điển.
Cách thức thực hiện EPs: kích thích thất phải tại
2 vị trí (mỏm và buồng thoát thất, kích thích ở
mỏm trước sau đó ở buồng thoát), 2 chu kỳ cơ
bản S1 600 và 400 ms, 1 hoặc 2 ngoại tâm thu S2
xuống đến thời kỳ trơ của thất, S3 xuống đến
thời kỳ trơ của thất hoặc đến 190ms. Nếu không
tạo được cơn nhanh thất hoặc rung thất kéo dài
(> 30 giây), có thể kích thích bằng burst với chu
kỳ ngắn dần 400 - 240ms hoặc phối hợp thêm
truyền isoprotorenol. Kết quả được gọi là dương
tính khi tạo được cơn nhanh thất/ rung thất kéo
dài.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát trên 37 bn, trong đó có 36
bn nam và 1 bn nữ, tuổi trung bình 42 ± 12,5 tuổi
(17-76). Những bn này đã đến trung tâm của
chúng tôi thực hiện khảo sát điện sinh lý sau khi
phát hiện điện tâm đồ bất thường của hội chứng
Brugada từ năm 2006 - 2009.
Trong các trường hợp này có lưu ý 4 số
trường hợp có tiền căn gia đình đột tử (cha hoặc
anh em trai), đặc biệt có gia đình có đến 4 người
anh em trai đột tử lúc ngủ hoặc nghỉ ngơi. 1
trường hợp có bố đột tử < 45 tuổi.
Chưa có trường hợp nào có tiền căn đột tử
ngưng tim được hồi sinh hoặc ghi nhận có VT/
VF trong quá khứ.
Biểu hiện lâm sàng các bn nghi ngờ có rối
loạn nhịp: với biểu hiện đa phần là hồi hộp (23
ca), trống ngực 8 ca, đau ngực 4 ca, ngất 2 ca.
ECG bề mặt: kiểu type I chiếm 35,1% (13),
type II chiếm 48,6% (18), type III chiếm 16,2%(6).
Kết quả khảo sát điện sinh lý
Kết quả có 15 trường hợp dương tính (40,5%).
Tỷ lệ dương tính khi thực hiện PVS:
Dương tính Âm tính Tổng
ECG type I 6 6 12
ECG type II 9 12 21
ECG type III 0 4 4
Kiểm định chi bình phương χ2 = 3,2, với p <
0,2. Chúng tôi thấy tuy không có mối liên hệ
nào giữa kiểu ECG với kết quả dương tính
nhưng có thể vì mẫu chúng tôi còn quá nhỏ.
Nhưng chúng tôi nhận xét thấy kiểu ECG type I
có tỷ lệ dương tính cao nhất: 50%, kế đến là type
II: 42,9%, type II không có trường hợp nào
dương tính.
Vị trí kích thích để tạo được cơn thường là
buồng thoát thất P (11 ca), chỉ có 4 ca kích thích
mỏm thất P tạo được cơn, trrong đó có 3 ca là có
tiền sử gia đình đột tử ở người trẻ. Số ngoại tâm
thu khi thực hiện PVS.
Số trường hợp
1 Kích thích 4
2 Kích thích 11
Trong 4 trường hợp chỉ dùng 1 ngoại tâm
thu đã tạo được loạn nhịp thất đã có 3 ca trong
gia đình có tiền căn 3 anh em trai đột tử trước
đó.
Kiểu loạn nhịp thường thấy nhất là rung
thất chiếm 93,3% (14 ca ), chỉ có 1 ca (6,7% ) xuất
hiện nhanh thất kéo dài.
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có số bn
nam chiếm đa số 97,3% chỉ có 1 trường hợp
nữ có điện tâm đồ kiểu hội chứng Brugada,
kết quả này cũng giống như nhận định của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 36
các tác giả Masayashu: tỷ lệ nam/nữ : 94%, tác
giả Duk- Woo Park trong nghiên cứu của ông
cũng có tỷ lệ nam/nữ: 87%, theo tác giả Hideki
Itoh(5): 28/2 (93,3%), theo tác giả Pedro
Brugada tỷ lệ nam/nữ: 74,5% trong nhóm có
ECG điển hình và có triệu chứng (tiền căn
ngất – tiền căn gia đình đột tử), tỷ lệ là 82%
đối với nhóm tình cờ phát hiện có ECG kiểu
Brugada. Rõ ràng so với nghiên cứu ở khu
vực Tây Âu tỷ lệ nam- nữ hơi thấp hơn trong
nghiên cứu của các tác giả châu Á.
Tỷ lệ dương tính với VT study xảy ra trên
đối tượng bn có biểu hiện ECG type I và bn có
tiền căn gia đình đột tử rất cao 50% (6/6), 100%.
Nhận định của chúng tôi phù hợp với các tác
giả khác như tác giả Mayasu Hiraoka(4) – BN
nam tạo được rung thất/ nhanh thất qua test
điện sinh lý, hoặc có tiền căn gia đình đột tử, có
ECG kiểu điển hình- là những bn có nguy cơ
cao, tác giả Brugada và cộng sự thấy rằng
những bn thoát chết vì đột tử có nguy cơ cao
nhất (69%), kế đến là bn từng ngất (19%), có điện
tâm đồ type I ngẫu nhiên cũng là 1 dấu chứng
nguy cơ cao, ngược lại ST chênh lên chỉ sau khi
tiêm thuốc ức chế kênh Ca lại chỉ là nguy cơ
thấp. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi
tỷ lệ dương tính với VT study (tạo được VT/VF)
cũng khá cao ở nhóm có biểu hiện ECG bề mặt
kiểu type II (42,9%) và không có trường hợp nào
type III dương tính với PVS. Tác giả Duk- Woo(7)
cũng cho kết quả gây loạn nhịp thất bằng PVS
xảy ra trên đối tượng có ECG type I hoặc luân
phiên kiểu điển hình và không điển hình là 54%.
Theo tác giả Kimie Ohkubo(6) và cộng sự tạo
được cơn loạn nhịp thất bằng PVS ở 27 trên 34
bn nghi ngờ có hội chứng Brugada, trong đó tác
giả đều tạo được cơn khi dùng 2 ngoại tâm thu
và kích thích đa phần tại buồng thoát thất phải
(mỏm thất phải 5 bn, buồng thoát thất phải 22
bn). Tác giả Duk- woo Park cũng cho thấy đa
phần tạo được cơn loạn nhịp thất đa phần tại
buồng thoát thất phải: 4/7 trường hợp VT study
dương tính. Chúng tôi cũng tạo được loạn nhịp
thất với đa phần tại buồng thoát thất P (11/15 ca)
và số kích thích thất thường là 2 kích thích
(11/15 ca), ngoài ra chúng tôi nhận thấy tiền căn
gia đình đột tử là 1 yếu tố tiên lượng nguy cơ
cao của hội chứng Brugada.
Mặc dù chỉ duy nhất 1 gene SCN5A có liên
hệ đến hội chứng Brugada tuy nhiên các tác giả
trong báo cáo đồng thuận về hội chứng Brugada
2005 cũng cho thấy đột biến gene SCN5A xảy ra
khoảng từ 18- 30% các trường hợp.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát 37 bệnh nhân ở khoa tim mạch
cấp cứu và can thiệp, bệnh viện Thống Nhất
chúng tôi nhận thấy: biểu hiện ECG hội chứng
Brugada xuất hiện ở nam giới cao hơn nữ giới;
những trường hợp chỉ có biểu hiện ECG của hội
chứng Brugada (cả 3 type) không có biểu hiện
triệu chứng trước đây cần thiết đánh giá nguy
cơ rối loạn nhịp thất bằng kích thích tim PVS;
các trường hợp lâm sàng có biểu hiện ECG type
I và tiền căn gia đình đột tử có nguy cơ dương
tính với kích thích tim PVS từ kết quả này chúng
ta mới đi đến quyết định cấy ICD cho bn; vị trí
kích thích tim tạo loạn nhịp thất ở những trường
hợp này đa phần tại vị trí buồng thoát thất phải.
HẠN CHẾ
Chúng tôi còn nhiều hạn chế hiểu biết về
bệnh lý này. Mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn
nhỏ. Việc theo dõi những trường hợp đã thực
hiện kích thích tim âm tính không được theo dõi
để đánh giá độ chuyên và độ đặc hiệu của khảo
sát điện sinh lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antzelevitch C, Brugada P, Borggrefe M, Brugada J, Brugada R,
Corrado D, Gussak I, LeMarec H, Nademanee K, Perez Riera
AR, Shimizu W, Schulze-Bahr E, Tan H and Wilde A (2005).
"Brugada Syndrome: Report of the Second Consensus
Conference: Endorsed by the Heart Rhythm Society and the
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 37
European Heart Rhythm Association". Circulation, 111(5), trang
659-670.
2. Antzelevitch C, Brugada P, Brugada J, Brugada R, Shimizu W
and Gussak I (2002). "Brugada syndrome- a decade of progress".
Circulation, 91, trang 1114- 1118.
3. Brugada P, Brugada R and Brugada J (2005). "Patients with an
asymptomtomatic Brugada electrocardiogram should undergo
pharmacological and electrophysiological testing". Circulation,
112, trang 279- 285.
4. Hiraoka M (2007). "Brugada Syndrome in Japan". Circulation
journal, Supplement A, trang 61- 68.
5. Itoh H, Shimizu M, Ino H, Okeie K, Yamaguchi M, Fujino N and
Mabuchi H (2001). "Arrhythmias in patients with Brugada- type
electrocardiographic findings". Japanese Circulation Journal, 65,
trang 483- 486.
6. Ohkubo K, Wantanabe I, Takagi Y, Okumura Y and Ashino S
(2007). "Electrocardiographic and Electrophysiologic
characteristics in patients with Brugada type electrocardiogram
and Inducible ventricular fibrillation". Circulation journal, 71,
trang 1437- 1441.
7. Park DW, Nam GB, Rhee KS, Han GH, Choi KJ and YH Kim
(2003). "Clinical characteristics of Brugada syndrome in Korean
population". Circulation journal, 67, pp. 934- 939.
8. Priori SG. (2005). "Management of patients with Brugada
syndrome should not be based on programmed electrical
stimulation". Circulation, 112, pp. 285-291.