Đặt vấn đề: Phẫu thuật là chỉ định điều trị cho các trường hợp trĩ độ 3 và 4. Tuy nhiên, trĩ sót và da thừa
sau mổ là những vấn đề quan tâm của thầy thuốc và bệnh nhân.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật khâu triệt mạch và khâu treo kết hợp cắt trĩ từng búi trong điều
trị trĩ vòng và gần vòng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu phân phối ngẫu nhiên có nhóm chứng, được tiến hành tại Bệnh
viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 01/01/2009 đến tháng 31/8/2010.
Kết quả: Kết luận: Khâu treo búi trĩ phụ sau khi cắt trĩ từng búi trong điều trị trĩ vòng hay gần vòng tuy
không làm giảm tỉ lệ da thừa hậu môn sau mổ, nhưng làm giảm tỉ lệ trĩ sót và sa niêm mạc ống hậu môn trực
tràng.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả khâu treo búi trĩ phụ trong cắt trĩ từng búi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 128
KẾT QUẢ KHÂU TREO BÚI TRĨ PHỤ TRONG CẮT TRĨ TỪNG BÚI
Nguyễn Trung Tín*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật là chỉ định điều trị cho các trường hợp trĩ độ 3 và 4. Tuy nhiên, trĩ sót và da thừa
sau mổ là những vấn đề quan tâm của thầy thuốc và bệnh nhân.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật khâu triệt mạch và khâu treo kết hợp cắt trĩ từng búi trong điều
trị trĩ vòng và gần vòng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu phân phối ngẫu nhiên có nhóm chứng, được tiến hành tại Bệnh
viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 01/01/2009 đến tháng 31/8/2010.
Kết quả: Kết luận: Khâu treo búi trĩ phụ sau khi cắt trĩ từng búi trong điều trị trĩ vòng hay gần vòng tuy
không làm giảm tỉ lệ da thừa hậu môn sau mổ, nhưng làm giảm tỉ lệ trĩ sót và sa niêm mạc ống hậu môn trực
tràng.
Từ khóa: Trĩ vòng, Cắt trĩ, Trĩ sót, Da thừa, Sa niêm mạc.
ABSTRACT
THE RESULTS OF HAND-SEWN OF THE REMAINING HEMORRHOIDS
IN COMBINATION WITH HEMORRHOIDECTOMY
Nguyen Trung Tin* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 128 - 133
Background: The unique treatment for 3rd and 4th degree hemorrhoids is surgical treatment. The mucosals
prolapse, remaining hemorrhoid cushions, and the skin tags are the chief considerations of the surgeons and their
patients.
Objective: This study was aimed at evaluating the result of the ligation of the remaining hemorrhoid
cushions after conventional hemorrhoidectomy.
Patients and Methods: The study was the randomized controlled study in the University Medical Center
at Ho Chi Minh city, from Jan 1st January, 2008 to 31st August, 2010.
Results: There were 390 patients with the circonferential hemorrhoids randomized into the group for the
hemorrhoidectomy and the group for the combined treatment of hemorrhoidectomy and hemorrhoid lift. The
proportion of skin tags after only hemorrhoidectomy was 8.9% (17 cases), compared with this of the combined
treatment group was 9.1% (cases), the difference was not statistically significant. The proportions of remaining
hemorrhoids and mucosal prolapse were 11.1% (22 cases) and 6.5% (13 cases) in group of hemorrhoidectomy,
respectively and those of the group of combined treatment were 5.2% (10 cases) and 2.1% (4 cases), respectively.
The differences were statistically significant.
Conclusion:The hemorrhoid lift could not reduce the proportion of skin tags, but could help to reduce the
proportion of remaining hemorrhoids and mucosal prolapse after operation.
Key words: Circumferential hemorrhoids, Hemorrhoidectomy, Hemorrhoid lift, Skin tags, Mucosal
prolapsed.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật là chỉ định điều trị cho các
trường hợp trĩ độ 3 và 4. Tuy nhiên, trĩ sót và da
thừa sau mổ là những vấn đề quan tâm của thầy
thuốc và bệnh nhân.
* Bộ Môn Ngọai Tổng Quát– Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS BS. Nguyễn Trung Tín. ĐT: (08) 39525388. E-mail: bsnguyentrungtin@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 129
Trong khâu treo trĩ Hussein(2) nhận xét trong
tuần đầu tiên có 15% bệnh nhân còn da thừa sau
mổ, sau một năm chỉ còn 2% bệnh nhân tồn tại
những mẩu da thừa này.
Khi so sánh giữa nhóm bệnh nhân được
thực hiện phẫu thuật Buie và nhóm bệnh nhân
được thực hiện phẫu thuật Longo cải biên, tác
giả Lê Quang Nhân(3) nhận thấy ở nhóm phẫu
thuật Buie chỉ có 5 trường hợp da thừa (chiếm
12,2%) và ở nhóm Longo cải biên có 20 trường
hợp (chiếm 48,8%), không có trường hợp nào
gặp khó chịu trong sinh hoạt cần phải phẫu
thuật cắt da thừa.
Các mẩu da thừa hay trĩ còn sa sau mổ gây
cho bệnh nhân tâm lí không thoải mái và cảm
giác như chưa hết bệnh, tác giả Beatie(4) và
Rowsell (5) cũng đồng ý là nên cắt luôn các mẩu
da thừa và trĩ còn sa này. Tuy nhiên, trong
những trường hợp trĩ vòng cắt hết các búi trĩ và
da thừa có thể gây đau nhiều, và khả năng hẹp
hậu môn tăng cao.
Để giảm tỉ lệ các mẩu da thừa và các búi trĩ
còn sa sau mổ chúng tôi thực hiện khâu treo các
búi trĩ phụ sau phẫu thuật cắt trĩ với mục tiêu:
xác định hiệu quả làm giảm tỉ lệ da thừa và trĩ
sót của khâu treo búi trĩ phụ kết hợp với cắt trĩ
từng búi trong điều trị bệnh trĩ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Hậu
môn học, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh, trong thời gian từ ngày 01/01/2009
đến 30/8/2010.
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng có nhóm
chứng, bệnh nhân trĩ độ 3 và 4 gần vòng hay
vòng được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm:
nhóm cắt trĩ đơn thuần và nhóm cắt trĩ có khâu
treo các búi trĩ phụ.
Phương pháp vô cảm được thực hiện là
phương pháp gây tê tủy sống.
Kỹ thuật mổ: Bệnh nhân trĩ gần vòng hay
vòng được tiến hành cắt trĩ từng búi theo
phương pháp Nguyễn Đình Hối. Các búi trĩ
chính được cắt và khâu cột gốc búi trĩ, các búi trĩ
phụ và da thừa còn sót lại được khâu treo bằng
cách khâu xếp nếp niêm mạc trực tràng ống hậu
môn bằng các mũi chữ x hay khâu xoắn vòng.
Năm 1966, Nguyễn Đình Hối(1) thực hiện
phẫu thuật cắt riêng từng búi trĩ kết hợp với tạo
hình da hậu môn. Mỗi búi dùng một đường
rạch, đường rạch hình thoi. Hai cạnh của hình
thoi đi theo đường nan hoa hướng tâm, ôm lấy
búi trĩ. Đầu ngoài hình thoi ở da, cưỡi lên bờ
dưới cơ thắt trong. Đầu trong lên quá đường
lược, nơi gốc búi trĩ. Ưu điểm của phương pháp
này là qua đầu ngoài của đường rạch nhìn thấy
rõ cơ thắt hậu môn. Kéo nhẹ chúng ra ngoài để
tránh làm thương tổn khi cắt trĩ. Đầu trong của
đường rạch ở cao nên nhìn thấy rõ gốc búi trĩ dễ
dàng và cắt trĩ thuận lợi. Sau mổ hai cạnh của
hình thoi dễ dính với nhau hơn là khi rạch
đường vòng, vết sẹo không bị nhăn nhúm.
Bệnh nhân được đánh giá trước mổ bằng
một bảng câu hỏi gồm có các thông tin tổng
quát, các bệnh nội khoa, quay video hậu môn
khi đi cầu để chẩn đoán mức độ sa trĩ. Chúng tôi
phỏng vấn bệnh nhân về mức độ đau ngày đầu
sau mổ, vào thời điểm đi cầu lần đầu tiên, sử
dụng giảm đau (câu hỏi tương tự cũng được
thực hiện vào tuần 2 sau mổ). Tất cả bệnh nhân
được nội soi đại tràng chậu hông và trực tràng
trước khi phẫu thuật để loại trừ các nguyên
nhân chảy máu trực tràng khác.
Đau được đánh giá bằng thang VAS từ 0
đến 10 (đau nhiều nhất theo kinh nghiệm của
bệnh nhân). Phân tích thống kê được thực hiện
bằng phép kiểm Student t test cho các biến số
liên tục và phép kiểm χ2 cho các biến số định
tính. Mức ý nghĩa thống kê được thực hiện ở
mức p < 0,05.
Bệnh nhân được theo dõi trong thời gian 1
tháng sau mổ, đánh giá mức độ đau sau mổ, sau
khi đi cầu, biến chứng sau mổ, tỉ lệ trĩ sót, sa
niêm mạc ống hậu môn trực tràng và da thừa
sau mổ.
KẾT QUẢ
Từ ngày 01/01/2009 đến 30/8/2010, có tổng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 130
cộng 390 bệnh nhân có trĩ vòng hay gần vòng
được phân phối ngẫu nhiên để được để được
điều trị cắt trĩ đơn thuần hay cắt trĩ có kết hợp
với khâu triệt mạch và khâu treo búi trĩ phụ.
Có 199 bệnh nhân (51%) được phẫu thuật cắt
trĩ đơn thuần, và 191 bệnh nhân (49%) được
phẫu thuật cắt trĩ kết hợp khâu treo búi trĩ phụ.
Các nhóm đều tương tự nhau về tuổi, giới,
độ trĩ và chỉ định phẫu thuật (Bảng 1). Tất cả
bệnh nhân đều được chuẩn bị phẫu thuật giống
nhau, cùng được sử dụng gây tê tủy sống để vô
cảm trước mổ, cắt trĩ bằng dao đốt siêu âm và
được sử dụng thuốc giảm đau giống nhau trong
suốt thời gian hậu phẫu (Perfalgan 1g x 2 lần /
ngày và Ketorol 30 mg x 2 lần / ngày).
Bảng 1: Đặc điểm của bệnh nhân theo phương pháp
phẫu thuật
Đặc điểm Kết hợp khâu treo
(n=191)
Cắt trĩ đơn thuần
(n=199)
P
Tuổi 39,76 ± 12,50 41,98 ± 12,53 0,08
Nam
Nữ
85 (49,7)
106 (48,4)
86 (50,3)
113 (51,6)
0,79
Độ 3
Độ 4
156 (47,7)
35 (55,6)
171 (52,3)
28 (44,4)
0,25
Sa vòng
Gần vòng
16 (50,0)
175 (48,9)
16 (50,0)
183 (51,1)
0,89
Cả hai nhóm không khác nhau về tuổi, giới,
độ sa trĩ và mức độ sa vòng của bệnh trĩ (Bảng
1).
Bảng 2: Đặc tính của bệnh nhân phân bố theo phẫu
thuật và giai đoạn sau mổ theo nhóm nghiên cứu
Kết hợp khâu
treo (n=191)
Cắt trĩ đơn
thuần (n=199)
P
Thời gian phẫu
thuật (phút)
26,28 ± 10,73 24,61 ± 9,42 0,10
Thời gian nằm viện
(ngày)
2,58 ± 1,38 2,61 ± 1,42 0,83
Đau 1 ngày sau
phẫu thuật (VAS)
5,60 ± 1,34 5,40 ± 1,62 0,18
Đau khi đi cầu lần
đầu tiên (VAS)
7,50 ± 1,62 7,30 ± 1,95 0,27
Đau 2 tuần sau
phẫu thuật (VAS)
1,27 ± 0,35 1,28 ± 0,58 0,83
Thời gian phẫu thuật trong nhóm cắt trĩ kết
hợp khâu treo búi trĩ phụ là 26,28 ± 10,73 phút,
thời gian phẫu thuật trong nhóm cắt trĩ đơn
thuần là 24,61 ± 9,42, tuy thời gian mổ có kết hợp
khâu treo dài hơn cắt trĩ đơn thuần, nhưng khác
nhau không có ý nghĩa thống kê (Bảng 2).
Thời gian nằm viện giữa hai nhóm là như
nhau, nhóm kết hợp khâu treo có thời gian nằm
viện là 2,58 ± 1,38 ngày và nhóm cắt trĩ đơn
thuần là 2,61 ± 1,42 ngày (p = 0,83).
Điểm số VAS của đau trong ngày đầu sau
mổ, đau khi đi cầu lần đầu tiên và sau mổ 2 tuần
giữa hai nhóm phẫu thuật là không khác nhau
có ý nghĩa thống kê (Bảng 2).
Bảng 3: Các biến chứng sớm sau phẫu thuật
Biến chứng Kết hợp khâu
treo (n=191)
Cắt trĩ đơn thuần
(n=199)
P
Chảy máu
sau mổ
5 (2,62%) 4 (2,01%) 0,69
Huyết khối trĩ
ngoại
4 (2,09%) 2 (1,01%) 0,38
Bí tiểu 10 (5,24%) 7 (3,52%) 0,40
Táo bón 9 (4,71%) 7 (3,52%) 0,55
Ngứa hậu
môn
5 (2,62%) 12 (6,03%) 0,09
Mót rặn 7 (3,66%) 1 (0,05%) 0,028
Các biến chứng sớm xảy ra trong hai nhóm
gần như tương đương nhau (Bảng 3). Các biến
chứng sớm thường gặp là chảy máu sau mổ. Có
9 trường hợp chảy máu sau mổ, trong đó 5
trường hợp (2,62%) chảy máu xảy ra trong
nhóm cắt trĩ có kết hợp khâu treo và 4 trường
hợp trong nhóm cắt trĩ đơn thuần (%) (p=0,69).
Các biến chứng như huyết khối trĩ ngoại, bí
tiểu, táo bón, ngứa hậu môn, táo bón không cao
và không khác nhau giữa 2 nhóm phẫu thuật.
Tuy nhiên trong nhóm khâu treo số lượng bệnh
nhân có triệu chứng mót rặn sau mổ là 7 bệnh
nhân (3,66%) cao hơn nhóm bệnh nhân chỉ cắt trĩ
đơn thuần 1 bệnh nhân (0,05%) (p=0,028).
Bảng 4: Da thừa, sa niêm mạc và trĩ sót sau mổ
Kết hợp khâu
treo (n=191)
Cắt trĩ đơn
thuần (n=199)
P
Không da thừa 174 (91,1%) 181 (90,9%)
Da thừa 17 (8,9%) 18 (9,1%)
0,96
Không trĩ sót 181 (94,8) 177 (88,9)
Trĩ sót 10 (5,2) 22 (11,1)
0,036
Không sa niêm
mạc
187 (97,9) 186 (93,5)
Sa niêm mạc 4 (2,1) 13 (6,5)
0,032
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 131
Nhóm có khâu treo búi trĩ kết hợp với cắt
trĩ từng búi có tỉ lệ da thừa sau mổ tương
đương với nhóm cắt trĩ đơn thuần (p=0,96).
Tuy nhiên, khi khâu treo và triệt mạch búi trĩ
phụ tỉ lệ trĩ sót và sa niêm mạc ống hậu môn
giảm rõ rệt, và sự khác nhau này là có ý nghĩa
thống kê (p=0,036 và 0,032).
BÀN LUẬN
Kĩ thuật khâu treo
Kĩ thuật khâu triệt mạch và treo trĩ được
thực hiện trong nghiên cứu này là kĩ thuật cải
biên phương pháp khâu treo của Hussein (2)
khâu triệt mạch và treo trĩ với các mũi khâu
xoắn ốc. Kĩ thuật khâu triệt mạch được thực hiện
gần giống như phương pháp của Hussein chỉ
thực hiện tại những nơi có các búi trĩ phụ.
Sau khi khâu triệt mạch bằng mũi chữ X bên
trên đường lược 1,5-2 cm, tiếp tục khâu xếp nếp
niêm mạc phía trên đường lược 4 cm để máu
của các nhánh tận của động mạch trực tràng trên
đi tới các đám rối trĩ trong giảm xuống còn tối
thiểu, làm cho kích thước của các búi trĩ sẽ giảm
dần theo thời gian đồng thời mũi khâu treo sẽ
giúp kéo búi trĩ vào trong ống hậu môn làm
giảm trĩ sót sau mổ.
Các mũi khâu triệt mạch và khâu treo trĩ
được thực hiện trên đường lược 1,5-2cm như
theo đề nghị của Hussein, nên sự thông nối của
các đám rối mạch máu trĩ ngoài và trong không
bị ảnh hưởng, vì thế có thể tránh được các biến
chứng sưng phù hay huyết khối gây tắc mạch
trong đám rối trĩ ngoại(2).
Tương tự mũi khâu xoắn ốc cũng bắt đầu
trên đường lược 4 cm và kết thúc trên đường
lược khoảng 1,5-2 cm, mũi khâu này vừa giúp
triệt mạch và vừa treo búi trĩ vào trong ống
hậu môn.
Tuy nhiên trong các trường hợp mũi khâu
triệt mạch lấy gần đường lược hơn có thể gây
cho bệnh nhân cảm giác mót rặn nhiều ngày sau
mổ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
có 3,66% hay 7 trường hợp khâu treo búi trĩ phụ
bệnh nhân có cảm giác mót rặn trong tuần đầu
sau mổ.
Một điều lưu ý khi khâu treo các búi trĩ phụ,
khoảng cách giữa các mũi kim không lấy quá
rộng vì có thể gây hẹp hậu môn sau khi khâu.
Sau khi kết thúc khâu treo phải kiểm tra lại kích
thước hậu môn để tránh tình trạng hẹp hậu môn
do khâu triệt mạch và khâu treo kết hợp.
Sa niêm mạc hậu môn
Sa niêm mạc ra ngoài ống hậu môn là một
biến chứng có thể xảy ra sau khi cắt trĩ, gây ngứa
ngáy khó chịu thường xuyên cho bệnh nhân vì
vùng hậu môn luôn luôn bị ẩm ướt và bị kích
thích do dịch nhày tiết ra từ niêm mạc(6).
Theo Devien nguyên nhân sa lộ niêm mạc là
do khâu trực tiếp niêm mạc trên đường lược
xuống da quanh hậu môn và mũi khâu không
lấy vào mặt trong cơ thắt trong. Ngoài ra khi cắt
trĩ có thể làm tổn thương cơ Treitz có nhiệm vụ
cố định niêm mạc tại chỗ trong lúc đại tiện cũng
góp phần tạo nên biến chứng này(7). Đây là biến
chứng của đường khâu da niêm thường gặp
trong phẫu thuật Whitehead. Nếu đường khâu
da-niêm quá căng làm đứt các mối khâu khiến
niêm mạc trực tràng bị rút lên cao và kết quả
gây hẹp hậu môn. Ngược lại đường khâu da
niêm nằm ngoài bờ hậu môn gây sa niêm mạc
ống hậu môn ra ngoài.
Rỉ dịch vẫn có thể gặp trong những trường
hợp sau cắt trĩ không có biến chứng sa niêm
mạc, tuy nhiên thường không gây khó chịu
nhiều và chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian
ngắn. Trong những trường hợp bệnh nhân sau
mổ trĩ có biến chứng sa niêm mạc thì tình trạng
rỉ dịch sẽ tồn tại kéo dài và có thể không bao giờ
khỏi hẳn nếu không được điều trị phẫu thuật (8).
Sa niêm mạc càng nặng thì rỉ dịch càng
nhiều, số lượng dịch nhầy tiết ra sẽ tỷ lệ thuận
với kích thước của phần niêm mạc bị sa lộ. Niêm
mạc bị sa lộ thường nhỏ và khó thấy nếu không
dùng van hay vén mạnh mép hậu môn để thăm
khám, nó có thể hiện diện dưới dạng một viền
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 132
hẹp nhỏ hoặc một hai chỗ niêm mạc sa bằng đầu
ngón tay màu đỏ.
Phần lớn các trường hợp sa lộ niêm mạc và
gây tiết dịch thường gặp sau phẫu thuật
Whitehead nhưng không phải không gặp
trong các phẫu thuật cắt trĩ khác, biến chứng
này có thể gặp với tỷ lệ lên đến 20% trong các
trường hợp cắt trĩ không sử dụng phẫu thuật
Whitehead(9).
Tỷ lệ sa lộ niêm mạc ở các tác giả sử dụng
phẫu thuật điều trị trĩ vòng như Barrios(9) là
2,4%, Atkinson và cs(10) 18% trong đó 16% các
trường hợp là sa niêm mạc nhẹ. Một số tác giả
khác thì nhận thấy nếu áp dụng phẫu thuật
Whitehead cải biên thì gần như không còn gặp
biến chứng này sau mổ(11,12).
Một trong những mục đích của phẫu thuật
khâu triệt mạch và khâu treo, nhất là phẫu thuật
Lono, là kéo và cố định da và niêm mạc hậu
môn vào trong lòng ống hậu môn và trực tràng,
nên trong hầu hết các nghiên cứu các tác giả
không báo cáo một trường hợp nào có sa niêm rỉ
dịch hậu môn sau mổ(13,14).
Da thừa quanh hậu môn và trĩ sót sau mổ
Phẫu thuật treo trĩ bằng máy bấm nhằm
mục đích ngăn chặn cung cấp máu cho các búi
trĩ từ các nhánh của động mạch trực tràng trên
ngay phía trên gốc các búi trĩ, đồng thời cố định
da và niêm mạc hậu môn sa ra ngoài vào trong
lòng ống hậu môn trực tràng. Khi cắt một
khoanh niêm mạc và dưới niêm mạc của ống
hậu môn trực tràng cũng giúp kéo một phần các
mẩu da thừa ở chung quanh hậu môn vào trong
lòng ống hậu môn, làm giảm kích thước các mẩu
da thừa với mục đích làm dễ chịu cho bệnh
nhân(15,16). Nếu các mẩu da thừa vẫn còn sau mổ
thì, theo nhận xét của Ho(15), hầu hết các mẩu da
thừa sẽ teo nhỏ lại sau một thời gian và không
gây khó chịu cho bệnh nhân.
Trong khâu treo trĩ Hussein(16) cũng nhận xét
tương tự, trong tuần đầu tiên có 15% bệnh nhân
còn da thừa sau mổ, sau một năm chỉ còn 2%
bệnh nhân tồn tại những mẩu da thừa này. Tác
giả đề nghị vị trí khâu triệt mạch và khâu treo trĩ
trong khoảng từ 1,5-2 cm trên đường lược để
làm giảm tỉ lệ biến chứng này.
Lê Quang Nhân(3) khi so sánh giữa nhóm
bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật Buie và
nhóm bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật
Longo cải biên, tác giả nhận thấy ở nhóm phẫu
thuật Buie chỉ có 5 trường hợp da thừa (chiếm
12,20%) và ở nhóm Longo cải biên có 20 trường
hợp (chiếm 48,80%), không có trường hợp nào
gặp khó chịu trong sinh hoạt cần phải phẫu
thuật cắt da thừa.
Trong nghiên cứu này, hiệu quả của khâu
treo và khâu triệt mạch các búi trĩ phụ để làm
giảm bớt tỉ lệ trĩ sót và sa niêm mạc hậu môn
là khá rõ rệt. Trong nhóm có khâu triệt mạch
và khâu treo trĩ tỉ lệ trĩ sót và sa niêm mạc là
5,2% và 2,1% so với nhóm chỉ cắt trĩ từng búi
đơn thuần các tỉ lệ này là 11,1% và 6,5%, sự
khác nhau này là có ý nghĩa thống kê (p=0,036
và 0,032).
Longo(17) cho rằng các búi trĩ hỗn hợp mà
phần trĩ ngoại quá lớn hoặc thành ống hậu môn-
trực tràng quá dày thì việc triệt mạch và treo các
búi trĩ lên cao là không thể triệt để được. Tác giả
cũng cho rằng mẩu da thừa và kể cả búi trĩ còn
sa sau mổ sẽ teo dần theo thời gian.
Năm 2001, Nguyễn Mạnh Nhâm(18) áp
dụng khâu vòng niêm mạc trực tràng bằng
tay, nếu có búi trĩ hỗn hợp to thì cắt búi trĩ đó
theo phương pháp Milligan và Morgan, kết
quả cũng rất khả quan.
Da thừa và trĩ sót là khuyết điểm chung của
các phương pháp phẫu thuật trên đường lược.
Các mẩu da thừa hay trĩ còn sa sau mổ gây cho
bệnh nhân tâm lí không thoải mái và cảm giác
như chưa hết bệnh, tác giả Beatie(4) và Rowsell(5)
cũng đồng ý là nên cắt luôn các mẩu da thừa và
trĩ còn sa này.
KẾT LUẬN
Khâu treo búi trĩ phụ sau khi cắt trĩ từng búi
trong điều trị trĩ vòng hay gần vòng tuy không
làm giảm tỉ lệ da thừa hậu môn sau mổ, nhưn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 133
làm giảm tỉ lệ trĩ sót và sa niêm mạc ống hậu
môn trực tràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Nguyễn Đình Hối (2002). “Bệnh Trĩ”. Trong Hậu môn Trực
tràng học. Nxb Y học Chi nhánh TP Hồ Chí Minh, tr. 73-104.
2 Hussein A.M. (2001). “Ligation anopexy for treatment of
advanced hemorrhoidal disease”. Dis Colon Rectum, 43: 1666-
75.
3 Lê Quang Nhân (2003). Đánh giá kết quả bước đầu điều trị trĩ
nội độ 3 và 4 bằng phẫu thuật Longo cải tiến. Luận văn thạc sĩ
Y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
4 Beattie G., Lam J.P.H., Loudon M.A. (2000). “A prospective
evaluation of the introduction of circumferential stapled
anoplasty in the management of haemorrhoids and mucosal
prolapse”. Colorectal Disease, 2: 137-142.
5 Rowsell M., Bello M., Hemingway D.M. (2000).
“Circumferential mucosectomy (stapled haemorrhoidectomy)
versus conventional haemorrhoidectomy: randomized
controlled trial”. Lancet, 355: 779-781.
6 Bonello JC (1988). Who’s afraid of the dentate line? The
Whitehead hemorrhoidectomy. Amer J Surg, 156: 182-186.
7 Devien CV, Pujol JP (1989). Total circular hemorrhoidectomy.
Int Surg, 74: 154-157.
8 Vigoni M (1980). Les sequelles de I’opeùration de Whitehead
et leur traitement. Ann Gastroenteùrol Heùpatol, 16: 213-218.
9 Barrios G, Khubchandani M (1979). Whitehead operation
revisited. Dis Col Rect, 330-332.
10 Atkinson KG, Baird RM (1978). Modified Buie amputation for
extensive hemorrhoidal disease. Ame J Surg, 135: 861-864.
11 Khubchandani M (1984). Results of Whitehead operation. Dis
Col Rect, 27: 730-732.
12 Seow-Choen