Mục tiêu: Xác định tần suất suy sinh dục thứ phát, giảm hoc mon tăng trưởng và các yếu tố liên quan đến
suy sinh dục thứ phát, giảm hocmon tăng trưởng trong giai đoạn cấp ở bệnh nhân chấn thương sọ não.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp mức độ vừa và nặng được
chọn thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo FSH, LH, testosterone (nam), astradiol và progesterone (nữ),
IGF1 máu 8 giờ sáng ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng cần thiết khác.
Kết quả: Nghiên cứu gồm 112 trường hợp chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện Chợ Rẫy,
có 20 bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm viện (chiếm tỉ lệ 17,9%). Nam giới chiếm đa số với 86,6%. Có 99
bệnh nhân suy sinh dục thứ phát, chiếm tỉ lệ 88,7%. Có 23 trường hợp giảm hoc mon tăng trưởng, chiếm tỉ lệ
20,6%. Giới nam có nguy cơ suy sinh dục nhiều hơn nữ gần 130 lần (OR= 0,008; p =0,000). Bệnh nhân có điểm
Glasgow lúc vào viện > 9 điểm sẽ làm giảm nguy cơ suy sinh dục 43% (p > 0,05). Nữ giới có nguy cơ giảm hoc
mon tăng trưởng nhiều hơn nam giới 1,49 lần (p > 0,05). Đường huyết lúc vào viện ≥ 180 mg/dl, điểm Glasgow
lúc vào viện càng thấp là những yếu tố gia tăng nguy cơ giảm hoc mon tăng trưởng (p > 0,05).
Kết luận: Tần suất suy sinh dục thứ phát và giảm hocmon tăng trưởng ở bệnh nhân chương sọ não giai
đoạn cấp lần lượt là 88,7% và 20,6%. Giới nam có nguy cơ suy sinh dục nhiều hơn nữ, nữ giới có nguy cơ giảm
hoc mon tăng trưởng nhiều hơn nam giới. Bệnh càng nặng càng làm tăng nguy cơ suy sinh dục thứ phát và
giảm hocmon tăng trưởng.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tần suất suy sinh dục thứ phát và giảm hocmon tăng trưởng ở bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 52
TẦN SUẤT SUY SINH DỤC THỨ PHÁT VÀ GIẢM HOCMON TĂNG TRƯỞNG
Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO GIAI ĐOẠN CẤP
Nguyễn Thy Khuê*, Dương Minh Mẫn**, Nguyễn Thị Bích Đào**, Phan Hữu Hên**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tần suất suy sinh dục thứ phát, giảm hoc mon tăng trưởng và các yếu tố liên quan đến
suy sinh dục thứ phát, giảm hocmon tăng trưởng trong giai đoạn cấp ở bệnh nhân chấn thương sọ não.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp mức độ vừa và nặng được
chọn thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo FSH, LH, testosterone (nam), astradiol và progesterone (nữ),
IGF1 máu 8 giờ sáng ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng cần thiết khác.
Kết quả: Nghiên cứu gồm 112 trường hợp chấn thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện Chợ Rẫy,
có 20 bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm viện (chiếm tỉ lệ 17,9%). Nam giới chiếm đa số với 86,6%. Có 99
bệnh nhân suy sinh dục thứ phát, chiếm tỉ lệ 88,7%. Có 23 trường hợp giảm hoc mon tăng trưởng, chiếm tỉ lệ
20,6%. Giới nam có nguy cơ suy sinh dục nhiều hơn nữ gần 130 lần (OR= 0,008; p =0,000). Bệnh nhân có điểm
Glasgow lúc vào viện > 9 điểm sẽ làm giảm nguy cơ suy sinh dục 43% (p > 0,05). Nữ giới có nguy cơ giảm hoc
mon tăng trưởng nhiều hơn nam giới 1,49 lần (p > 0,05). Đường huyết lúc vào viện ≥ 180 mg/dl, điểm Glasgow
lúc vào viện càng thấp là những yếu tố gia tăng nguy cơ giảm hoc mon tăng trưởng (p > 0,05).
Kết luận: Tần suất suy sinh dục thứ phát và giảm hocmon tăng trưởng ở bệnh nhân chương sọ não giai
đoạn cấp lần lượt là 88,7% và 20,6%. Giới nam có nguy cơ suy sinh dục nhiều hơn nữ, nữ giới có nguy cơ giảm
hoc mon tăng trưởng nhiều hơn nam giới. Bệnh càng nặng càng làm tăng nguy cơ suy sinh dục thứ phát và
giảm hocmon tăng trưởng.
Từ khóa: Chấn thương sọ não, suy sinh dục thứ phát, giảm hocmon tăng trưởng
ABSTRACT
PREVALENCE OF SECONDARY HYPOTHYROIDISM IN ACUTE TRAUMATIC BRAIN INJURY
PATIENTS
Nguyen Thy Khue, Duong Minh Man, Nguyen Thi Bich Đao, Phan Huu Hen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 52 - 58
Background/Objectives: The objective of this study is to determine the prevalence and many factors related
to secondary hypogonadism and growth hormone deficiency in acute traumatic brain injury patients.
Subjects/methods: The study was designed as a cross sectional investigation. Convient - consecutive
patients with moderate and severe head trauma were enrolled during acute phase after injury. Baseline serum
concentrations of hormones were measured in the morning: FSH, LH, testosterone (male), astradiol và
progesterone (female), IGF1.
Results: The study included 112 cases of brain injury in the acute phase at Cho Ray Hospital, 20 patients
died during hospitalization (17.9% proportion). Males dominate with 86.6%. There were 99 patients with
secondary hypogonadism, accounting for 88.7%. There are 23 cases of reduced growth hormone, representing
* Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam ** Khoa Nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS. Phan Hữu Hên, ĐT: 0972 176 679, Email: phanhuuhen@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 53
20.6%. Men had risk of secondary hypogonadism nearly 130 times more than women (OR = 0.008, p =
0.000). Patients with a Glasgow score at admission> 9 points will reduce the risk of secondary
hypogonadism 43% (p> 0.05). Women had risk of reduced growth hormone 1.49 times more likely than
men (p> 0.05). Admission blood glucose level ≥ 180 mg / dl, the lower Glasgow at the hospital admission
are factors increasing the risk of reduced growth hormone (p> 0.05).
Conclusions: Prevalence of secondary hypogonadism and growth hormone deficiency in patients with acute
traumatic brain injury were 88.7% and 20.6%, respectively. Men had risk of secondary hypogonadism more
than women. Women hadrisk of reduced growth hormone more likely than men. More severe patients were,
higher risk of secondary hypogonadism and growth hormone deficiency.
Keywords: Traumatic brain injury, secondary hypogonadism, growth hormone deficiency
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến nay, chấn thương sọ não được xem
là nguyên nhân của suy tuyến yên. Năm 2005,
Hiệp hội các khoa y, nội tiết ở các trường đại
học châu Âu và Mỹ đã có khuyến cáo đo hoc
mon tuyến yên trong giai đoạn cấp của chấn
thương sọ não vào buổi sáng, bao gồm cortisol,
TSH, fT4, IGF1, FSH, LH, testosterone (nam) và
estradiol (nữ), PRL ở tất cả bệnh nhân có mức độ
nặng và trung bình(9). Nghiên cứu của tác giả
Fatih Tanriverdi năm 2006 cho thấy tỉ lệ thiếu
hụt hoc mon ACTH, FSH/LH, TSH trong giai
đoạn cấp của chấn thương sọ não lần lượt là
9,8%, 41,6%, 5,8%; và tỉ lệ này trong 12 tháng
theo dõi là 19,2%, 7,7%, 5,8%(10). Suy tuyến yên là
một biến chứng thường gặp của chấn thương sọ
não, tần suất ít nhất 25%(4). Nhiều nghiên cứu
chủ yếu tập trung vào khảo sát chức năng trục
tuyến yên – thượng thận và tuyến giáp vì vai trò
của các trục này đối với sự sống còn của người
bệnh trong giai đoạn cấp chấn thương sọ não
cũng như quá trình phục hồi di chứng sau đó.
Rất ít các nghiên cứu khảo sát chức năng trục
tuyến yên – sinh dục cũng như hocmon GH.
Thiếu hụt GH là dạng thiếu hụt gặp nhiều nhất
vì tế bào tiết GH nằm hai bên cách của tuyến
yên, nhận máu và oxy từ hệ cửa. Tổn thương
vùng này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến khã
năng cung cấp máu và oxy dẫn tế bào bị chết.
Ngược lại tế bào tiết ACTH và TSH nằm ở trung
tâm của tuyến yên nên được bảo vệ tốt hơn,
ngoài nhận máu từ hệ cửa chúng còn nhận máu
từ động mạch tuyến yên(12). Tại Việt Nam, chấn
thương sọ não được xem là một trong những
nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất chưa kể
các gánh nặng của gia đình, xã hội về khía cạnh
kinh tế, y tế Các nghiên cứu khảo sát chức
năng tuyến yên trong giai đoạn cấp chấn
thương sọ não chưa được thực hiện tại Việt
Nam. Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu
nhằm phát hiện các rối loạn liên quan đến hoc
mon tuyến giáp và hoc mon tăng trưởng ở bệnh
nhân chấn thương sọ não giai đoạn cấp.
Mục tiêu
Xác định tần suất suy sinh dục thứ phát,
giảm hocmon tăng trưởng và các yếu tố liên
quan đến suy sinh dục thứ phát, giảm hocmon
tăng trưởng trong giai đoạn cấp ở bệnh nhân
chấn thương sọ não.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân chấn thương sọ não giai đoạn
cấp có điểm Glasgow Coma Scale lúc nhập viện
< 13 điểm và có tổn thương não trên CT scan sọ.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền căn suy tuyến yên hay
suy sinh dục nguyên phát.
Phương pháp
Mô tả cắt ngang. Bệnh nhân được chọn
thuận tiện, liên tục. Mỗi bệnh nhân được đo một
mẫu FSH, LH, testosterone (nam), astradiol (nữ),
IGF1 máu lúc 8 giờ sáng trong vòng 1 tuần sau
nhập viện ngoài các xét nghiệm, cận lâm sàng
cần thiết khác. Thời gian từ tháng 04/2011 –
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 54
10/2011 tại khoa Hồi sức Ngoại thần kinh – Bệnh
viện Chợ Rẫy.
Xét nghiệm
Được thực hiện tại Khoa Sinh hóa – Bệnh
viện Chợ Rẫy.
FSH, LH: Đo bằng máy Evidance, phương
pháp miễn dịch hóa phát quang
(chemiluminescent immunoassay). Test kit là
Cat. No EV 3528 do hãng Randox sản xuất. Giá
trị bình thường:
Đối tượng Giá trị FSH (IU/L) Giá trị LH (IU/L)
0 – 6 tuổi 1 – 4 1 – 18
6 – 10 tuổi < 1 – 3 < 1 – 5
Giai đoạn nang trứng 1 – 9 1 – 12
Giai đoạn rụng trứng 6 – 26 16 – 104
Giai đoạn hoàng thể 1 – 9 1- 12
Mãn kinh 30 – 118 16 – 66
Nam giới 1 – 7 1 – 8
Estradiol: Đo bằng máy Evidance, phương
pháp miễn dịch hóa phát quang
(chemiluminescent immunoassay). Test kit là
Cat. No EV 3528 do hãng Randox sản xuất. Giá
trị bình thường.
Đối tượng Giá trị (pg/ml)
Trước dậy thì (< 10 tuổi) 3 – 10
Giai đoạn nang trứng 20 – 350
Giai đoạn hoàng thể 30 – 450
Nam giới 10 – 50
Testosterone: Đo bằng máy Evidance,
phương pháp miễn dịch hoá phát quang
(chemiluminescent immunoassay). Test kit là
Cat. No EV 3528 do hãng Randox sản xuất. Giá
trị bình thường: nam: 2,72 – 8,86 ng/ml; nữ: 0,21
– 0,95 ng/ml
Định nghĩa biến số
Độ nặng của chấn thương sọ não dựa vào
thang điểm Glasgow lúc vào viện, được chia
thành hai mức độ trung bình (9-13 điểm) và
nặng (3-8 điểm).
Suy sinh dục thứ phát được xác định khi
testosterone máu < 3 pg/ml (nam) hay astradiol <
11 pg/ml và FSH, LH bình thường hoặc thấp.
Thiếu hụt GH khi IGF1 < 84ng/ml.
Thống kê: Số liệu được xử lý bằng phần
mềm R 2.10.1. Các biến định tính được trình bày
dưới dạng tỉ lệ, phần trăm. Các biến số định
lượng có phân phối chuẩn được trình bày dưới
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn; các biến định
lượng không có phân phối chuẩn được trình
bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị). Kiểm
định mối tương quan giữa các biến định tính
bằng phép kiểm Chi bình phương (có hiệu
chỉnh theo Exact’s Fisher). Kiểm định sự khác
biệt giữa hai biến định lượng có phân phối
chuẩn bằng phép kiểm T test, hai biến không có
phân phối chuẩn bằng phép kiểm Mann
Whitney. Mọi sự khác biệt được xem là có ý
nghĩa thống kê khi p < 0,05; với khoảng tin cậy
95%.
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu 112 trường hợp chấn
thương sọ não trong giai đoạn cấp tại bệnh viện
Chợ Rẫy, chúng tôi ghi nhận có 20 bệnh nhân tử
vong trong thời gian nằm viện (chiếm tỉ lệ
17,9%). Sau đây là các đặc điểm của nghiên cứu:
Đặc điểm chung
Tỉ lệ suy các trục truyến yên
Bảng 1: Tỉ lệ suy các trục tuyến yên
Suy các trục tuyến yên Số lượng (n = 112) Phần trăm
Suy tuyến yên – sinh dục 99 88,7%
Giảm hoc mon tăng
trưởng 23 20,6%
Nhận xét: có 99 bệnh nhân suy trục tuyến
yên – sinh dục, chiếm tỉ lệ 88,7%. Có 23 trường
hợp giảm hoc mon tăng trưởng, chiếm tỉ lệ
20,6%.
Các đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và nguyên
nhân chấn thương sọ não
Bảng 2: Đặc điểm về địa dư, nghề nghiệp và nguyên
nhân chấn thương sọ não
Đặc điểm Số lượng (n = 112) Phần trăm
Giới nam 97 86,6%
Địa chỉ
Tỉnh 94 83,9%
Thành phố 18 16,1%
Nghề nghiệp
Buôn bán 9 8,0%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 55
Đặc điểm Số lượng (n = 112) Phần trăm
Nông dân 35 31,2%
Học sinh – sinh viên 31 27,7%
Công nhân – công
chức 23 20,5%
khác 14 12,5%
Nguyên nhân CTSN
Tai nạn giao thông 100 89,3%
Tai nạn lao động 3 2,7%
Tai nạn sinh hoạt 9 8,0%
Mổ cấp cứu 49 43,8%
Nhận xét: đa số đối tượng nghiên cứu là
nam giới (chiếm tỉ lệ 88,6%), địa chỉ ở tỉnh
(83,9%). Nông dân, học sinh- sinh viên, công
nhân – công chức chiếm lần lượt là 32,1%, 27,7%
và 20,5%. Có 49 trường hợp được mổ cấp cứu,
chiếm tỉ lệ 43,9%.
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Các đặc điểm lâm sàng
Bảng 3: Các đặc điểm lâm sàng
Đặc điểm Giá trị
Tuổi (năm)* 32,5 (22,0 – 48,7)
Điểm Glasgow lúc vào viện 6,9 ± 2,1
Thang điểm Marshall 4,1 ± 1,2
Thời gian nằm viện (ngày)* 17,0 (11,0 – 24,0)
Thời gian từ lúc chấn thương đến mổ
cấp cứu (giờ)*
10,0 (6,0 – 12,0)
(*) Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)
Nhận xét: Tuổi trung bình là 32,5; điểm
Glasgow lúc vào viện là 6,9 ± 2,1; thang điểm
Marshall 4,1 ± 1,2; thời gian nằm viện trung bình
là 17 ngày; thời gian từ lúc chấn thương cho đến
khi mổ cấp cứu (đối với những trường hợp có
mổ cấp cứu) là 10 giờ.
Các đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 4: Các đặc điểm cận lâm sàng
Đặc điểm Giá trị
Đường huyết (mg/dl)* 140,9 ± 45,9
FSH* 2,2 (1,1 – 3,8)
LH* 1,9 (1,0 – 4,7)
Testosterone* 0,62 (0,38 – 1,06)
Estradiol* 32,6 (23,8 – 55,4)
Progesterone* 0,85 (0,45 – 1,45)
IGF1* 129,4 (88,7 – 173,4)
(*)Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị)
Nhận xét: Đường huyết trung bình của mẫu
nghiên cứu 140,9 ± 45,9 mg/dl.
Các yếu tố liên quan đến suy sinh dục thứ
phát ở bệnh nhân chấn thương sọ não
Mối liên quan của các thương tổn trên CT scan
não
Bảng 5: Mối liên quan của các thương tổn trên CT
scan não
Các yếu
tố
Không suy SD
(n = 13)
Suy sinh dục
(n= 99)
OR (95%
KTC) p
Dập, xuất huyết DMC hay trong não
Không 2 (20%) 8 (80%)
Có 11 (10,8%) 91 (89,2%)
2,07 (0,39 –
10,99) 0,327
XH ngoài màng cứng
Không 8 (16%) 42 (84%)
Có 5 (8,1%) 57 (91,9%)
2,17 (0,66 –
7,11) 0,192
Xuất huyết dưới nhện
Không 7 (30,4%) 16 (69,6%)
Có 6 (6,7%) 83 (93,3%)
6,05 (1,79 –
20,29) 0,005
Vỡ xương bướm
Không 13 (12,1%) 94 (87,9%)
Có 0 5 (100%)
- -
Đường giữa lệch
Không 7 (16,3%) 36 (83,7%)
Có 6 (8,7%) 63 (91,3%)
2,04 (0,64 –
6,54) 0,240
Độ
Marshall 3,7 ± 1,4 4,2 ± 1,2
1,34 (0,86 –
2,01) 0,202
Nhận xét: Tất cả các thương tổn trên CT scan
não như xuất huyết DMC – trong não hay ngoài
màng cứng, xuất huyết dưới nhện, vỡ xương
bướm, đường giữa di lệch đều làm gia tăng
nguy cơ bị suy trục tuyến yên – tuyến giáp, tuy
nhiên chỉ có xuất huyết dưới nhện là khác biệt
có ý nghĩa thống kê. Cả 05 trường hợp vỡ xương
bướm đều bị suy sinh dục.
Mối liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn
thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện
Bảng 6: Liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn
thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện
Các yếu tố Không suy SD (n = 13)
Suy sinh
dục (n= 99)
OR (95%
KTC) p
Giới
Nam 2 (2,1%) 95 (97,9%)
Nữ 11 (73,3%) 4 (26,7%)
0,008
(0,001 –
0,47)
0,000
Đường huyết
< 180 mg/dl 10 (10,6%) 84 (89,4%) 0,69 (0,15 0,436
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 56
Các yếu tố Không suy SD (n = 13)
Suy sinh
dục (n= 99)
OR (95%
KTC) p
≥ 180mg/dl 3 (16,7%) 15 (83,3%) – 3,41)
Glasgow
≤ 9 điểm 9 (10,2%) 79 (89,8%)
10 -13 điểm 4 (16,7%) 20 (83,3%)
0,57 (0,16
– 2,04) 0,471
Tuổi (năm)*
46,0
(24,5 – 64,0)
31,0
(21,0 – 48,0)
-
0,109
Điểm
Glasgow 7,3 ± 2,5 6,9 ± 2,1
0,92 (0,71
– 1,20) 0,541
(*) Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị),
Mann Whitney test
Nhận xét: Có đến 97,5% các trường hợp nam
giới bị suy sinh dục, trong khi tỉ lệ của nữ giới là
26,7%. Một bệnh nhân nữ bị chấn thương sọ não
thì có nguy cơ suy sinh dục thấp hơn nam giới
gần 130 lần (OR= 0,008; p =0,000). Bệnh nhân có
điểm Glasgow lúc vào viện > 9 điểm sẽ làm
giảm nguy cơ suy sinh dục 43%, mối liên hệ này
không có ý nghĩa thống kê.
Các yếu tố liên quan đến giảm hoc mon
tăng trưởng ở bệnh nhân chấn thương sọ
não
Mối liên quan của các thương tổn trên CT scan
não
Bảng 7: Mối liên quan của các thương tổn trên CT
scan não
Các yếu
tố
Không giảm
GH
(n = 89)
Giảm GH
(n= 23)
OR (95%
KTC) p
Dập, xuất huyết DMC hay trong não
Không 9 (90%) 1 (10%)
Có 80 (78,4%) 22 (21,6%)
2,48 (0,29 –
20,60) 0,684
XH ngoài màng cứng
Không 41 (82,0%) 9 (18%)
Có 48 (77,4%) 14 (22,6%)
1,33 (0,52 –
3,38) 0,551
Xuất huyết dưới nhện
Không 19 (82,6%) 4 (17,4%)
Có 70 (78,7%) 19 (21,3%)
1,29 (0,39 –
4,24) 0,675
Vỡ xương bướm
Không 84 (78,5%) 23 (21,5%)
Có 5 (100%) 0
- -
Đường giữa lệch
Không 36 (83,7%) 7 (16,3%)
Có 53 (76,8%) 16 (23,2%)
1,55 (0,58 –
4,15) 0,379
Độ
Marshall 4,0 ± 1,2 4,3 ± 1,1
1,21(0,80 –
1,83) 0,361
Nhận xét: Tất cả các thương tổn trên CT scan
não như xuất huyết DMC – trong não hay ngoài
màng cứng, xuất huyết dưới nhện, vỡ xương
bướm, đường giữa di lệch đếu làm gia tăng
nguy cơ giảm hoc mon tăng trưởng, tuy nhiên
không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê.
Mối liên quan của giới, tuổi, độ nặng chấn
thương sọ não và đường huyết lúc nhập viện
Bảng 8: Liên quan của giới, tuổi, độ nặng và đường
huyết lúc nhập viện
Các yếu
tố
Không giảm
GH (n = 89)
Giảm GH
(n= 23)
OR
(95% KTC) p
Giới
Nam 78 (80,4%) 19 (19,6%)
Nữ 11 (73,3%) 4 (26,7%)
1,49
(0,43 – 5,21)
0,506
Đường huyết
< 180
mg/dl 75 (79,8%) 19 (20,2%)
≥
180mg/dl 14 (77,8%) 4 (22,2%)
1,13
(0,33– 3,82)
0,847
Đái tháo nhạt
Không 13 (12,1%) 94 (87,9%)
Có 0 5 (100%)
- -
Tuổi
(năm)*
46,0
(24,5 – 64,0)
31,0
(21,0 – 48,0)
-
0,109
Điểm
Glasgow 6,8 ± 2,1 6,9 ± 2,1
0,92
(0,71 – 1,20)
0,541
(*) Biến được trình bày dưới dạng trung vị (khoảng tứ vị),
Mann Whitney test
Nhận xét: Nữ giới có nguy cơ giảm hoc mon
tăng trưởng nhiều hơn nam giới 1,49 lần. Đường
huyết lúc vào viện ≥ 180 mg/dl, điểm Glasgow
lúc vào viện càng thấp là những yếu tố gia tăng
nguy cơ giảm hoc mon tăng trưởng. Tuy nhiên
tất cả các mối liên hệ đều không có ý nghĩa
thống kê.
BÀN LUẬN
Rối loạn chức năng tuyến yên sau khi bị
chấn thương có thể phân chia thành hai giai
đoạn: (a) sự thay đổi chức năng trong giai đoạn
cấp sau chấn thương sọ não dẫn đến tình trạng
tăng hoặc giảm tạm thời nồng độ các hoc mon
trong máu; (b) có sự thay đổi tiết các hoc mon
tuyến yên có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau chấn
thương sọ não, dẫn đến suy tuyến yên vĩnh viễn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 57
do tổn thương tại tuyến yên và / hoặc tại vùng
hạ đồi(6).
Tuyến yên đáp ứng với những chấn
thương cấp tính thông qua hai kiểu tiết: tăng
bài tiết adrenocorticotropin (ACTH), prolactin
(PRL), và hoc mon tăng trưởng (GH), trong
khi nồng độ các hoc mon hoàng thể
(luteinizing hoc mon) (LH), hoc mon kích
thích noãn (folicle-stimulating hoc mon)
(FSH) và hoc mon hướng giáp (thyrotropin
hoc mon) (TSH) giảm hoặc không thay đổi,
kết hợp với giảm hoạt động các cơ quan đích.
Sự thay đổi nồng độ các hoc mon trong máu
biểu hiện rõ ràng trong những giờ đầu hay
những ngày đầu sau chấn thương, và có thể
tồn tại trong suốt thời gian cấp của bệnh(16).
Những thay đổi này thể hiện sự thích nghi
đối với tổn thương, có thể bị ảnh hưởng bởi
từng loại chấn thương và các loại thuốc dùng
để điều trị trong giai đoạn nguy kịch (như
glucocorticoid, thuốc giảm đau hoặc
dopamine)(16). Mức độ nặng của chấn thương
sọ não và tổn thương não thứ phát được xem
là các yếu tố nguy cơ suy tuyến yên sau chấn
thương(3,1).
Tỉ suất mới mắc thiếu hụt hoc mon sinh dục
khá cao sau chấn thương sọ não. Nồng độ
testosteron ở nam và estrogen ở nữ giảm đáng
kể trong vòng 24 giờ sau khi bị tổn thương não
và vẫn còn thấp trong 7 – 10 ngày. Nồng độ
testosteron có thể về bình thường sau 3 – 6
tháng hay vẫn còn thấp(13). Nồng độ
gonadotropin cũng giảm, nhưng đáp ứng của
chúng với tiêm GnRH có thể bình thường hoặc
tăng gợi ý cơ chế giảm gonadotropin ở tuyến
yên.
Trong nghiên cứu chúng tôi, tần suất suy
sinh dục thứ phát ở bệnh nhân chương sọ não
giai đoạn cấp là 88,7% cũng tương tự với tác giả
Agha. Nghiên cứu của Agha trên 50 bệnh nhân
trong giai đoạn cấp của chấn thương sọ não
mức độ trung bình đến nặng đã phát hiện suy
sinh dục trung ương ở 80% trường hợp, bao
gồm 18 bệnh nhân có tăng prolactin máu(1). Xét
các yếu tố liên quan đến nguy cơ suy sinh dục,
chúng tôi nhận thấy tất cả các thương tổn trên
CT scan não như xuất huyết DMC – trong não
hay ngoài màng cứng, xuất huyết dưới nhện, vỡ
xương bướm, đường giữa di lệch đếu làm gia
tăng nguy cơ bị suy trục tuyến yên – tuyến giáp,
tuy nhiên chỉ có xuất huyết dưới nhện là khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Giới nam có nguy cơ
suy sinh dục nhiều hơn nữ, bệnh càng nặng
càng làm tăng nguy cơ suy sinh dục thứ phát.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chẩn đoán
thiếu hụt hoc mon sinh dục chủ yếu bằng đo
tĩnh FSH, LH, astradiol (nữ) và testosterone
(nam).
Sự tiết hoc mon hướng sinh dục ở nam
được đánh giá bằng đo nồng độ testosteron
to