Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 447
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT THẦN KINH GIAO CẢM NGỰC 
VỚI GÂY MÊ NỘI KHÍ QUẢN 1 NÒNG 
TRONG ĐIỀU TRỊ TĂNG TIẾT MỒ HÔI TAY VÀ NÁCH 
Văn Minh Trí* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tăng tiết mồ hôi tay và nách là bệnh hay gặp ở người trẻ, gây nhiều phiền toái trong sinh hoạt 
hằng ngày, nhất là trong giao tiếp. Phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt hạch thần kinh giao cảm là phương pháp 
điều trị hiệu quả cao và dễ thực hiện. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá khả năng phẫu thuật nội soi lồng ngực áp dụng gây mê với nội khí quản 1 
nòng. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang từ 01/2009-10/2010. 
Kết quả: có 16 trường hợp tăng tiết mồ hôi tay, nách được phẫu thuật, nam/nữ 0,6. Tuổi trung bình 21 ± 
2,4; tỷ lệ khô 2 tay là 100%. Có 1 trường hợp được đặt dẫn lưu màng phổi P dự phòng. Không có biến chứng 
nào được ghi nhận. 
Kết luận: Với gây mê nội khí quản 1 nòng, phẫu thuật nội soi cắt hạch giao cảm ngực 3 hoặc 3,4 trong 
điều trị tăng tiết mồ hôi tay và nách hiệu quả cao, ít tai biến và biến chứng. 
Từ khóa: Tăng tiết mồ hôi tay và nách, gây mê với nội khí quản 1 nòng. 
ABSTRACT 
OUTCOME OF THORACOSCOPIC SYMPATHECTOMY WITH ENDOTRACHEAL TUBE 
ANESTHESIA IN TREATMENT OF PALMAR AND AXILLARY HYPERHIDROSIS 
Van Minh Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 447 - 451 
Objective: Palmar and axillary hyperhidrosis is frenquently present in young patients, causing a lot of 
problems in life, especially in social communication. Thoracoscopic sympathectomy is the highly effective 
treament. 
The aim of this study: Assessing capacity of Thoracoscopic sympathectomy in patients anaesthetized with 
single-lumen Endotracheal tube. 
Methods: Descriptive study; At Nhan Dan Gia Dinh Hospital from 01/2009 to 10/2010 
Results: A series of 16 Hyperhidrosis patients were performed thoracoscopic sympathectomy. Male/female 
was 0.60, with mean age 21 ±2.4. Dried proportion in both hands obtained 100%. One case was placed chest 
tube. No patient had a postoperative complication. 
Conclusion: Thoracoscopic sympathectomy in treatment hyperhidrosis is highly effective, less complication 
when general anesthesia is initiated with a single-lumen endotracheal tube. 
Key words: Hyperhydrosis, single-lumen endotracheal tube. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tăng tiết mồ hôi quá mức xuất hiện ở mặt, 
lòng bàn tay, bàn chân, nách, lưng do tình 
trạng cường giao cảm gây ra, chiếm khoảng 1% 
dân số. Tăng tiết mồ hôi tay, nách được coi là một 
* Bộ môn Ngoại Lồng Ngực – Tim mạch - Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: BS CKI Văn Minh Trí ĐT: 0908164844 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 448 
bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại 
gây nhiều phiền toái đối với người bệnh trong lao 
động, sinh hoạt và giao tiếp xã hội. Bệnh có thể để 
lại những hậu quả đáng kể về mặt tâm lý. Chính 
vì vậy, nhu cầu điều trị bệnh trở nên cấp thiết đối 
với đa số bệnh nhân. 
Những năm gần đây, phẫu thuật nội soi là 
phương pháp điều trị được áp dụng rộng rãi vì 
tính ưu việt: an toàn, đơn giản, hiệu quả và thẩm 
mỹ. Phương pháp này đã thay thế hoàn toàn cho 
phương pháp mở ngực kinh điển, các thủ thuật 
triệt hạch bằng tiêm cồn hay nước sôi qua thành 
ngực hay liệu pháp điện ion hóa, botox, laser 
trong điều trị bệnh tăng tiết mồ hôi. 
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu báo cáo về 
cắt hạch thần kinh giao cảm ngực qua nội soi 
trong điều trị tăng tiết mồ hôi tay với tỷ lệ thành 
công rất cao, đơn giản và ít biến chứng. Tuy 
nhiên, để thực hiện được phẫu thuật này cần phải 
gây mê nội khí quản hai nòng (Carlène) thông 
khí từng bên phổi. Kết hợp với tư thế nằm 
nghiêng, nằm sấp hay nằm ngửa(7). Phương pháp 
này làm cho phẫu thuật trở nên khá phức tạp, tốn 
kém, đôi khi gây tổn thương đường hô hấp không 
cần thiết(2). 
Ngày nay, có nhiều bệnh viện trang bị phẫu 
thuật nội soi, có ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt 
hạch thần kinh giao cảm ngực. Tuy nhiên trong 
hoàn cảnh Việt Nam hiện tại một số trang thiết bị 
chuyên dụng còn thiếu nên việc cải tiến một số 
kỹ thuật trong phẫu thuật nội soi lồng ngực cho 
phù hợp với hoàn cảnh hiện tại bằng cách gây 
mê nội khí quản “thường” mà vẫn mang lại hiệu 
quả, giảm chi phí, an toàn cho bệnh nhân. 
Nhằm phát triển và cải tiến quy trình điều 
trị, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đánh giá khả 
năng của phẫu thuật này áp dụng gây mê với 
nội khí quản 1 nòng trong điều trị tăng tiết mồ 
hôi tay, nách. Làm cho phẫu thuật trở nên đơn 
giản và đỡ tốn kém mà vẫn đảm bảo an toàn cho 
bệnh nhân. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang 
Đối tượng nghiên cứu 
Những bệnh nhân tăng tiết mồ hôi tay, nách 
được phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân Dân Gia 
Định trong thời gian từ tháng 01/2009 đến tháng 
10/2010 với gây mê NKQ 1 nòng. 
Phương pháp thực hiện 
Kỹ thuật mổ 
Sử dụng bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi lồng 
ngực không cần CO2. 
- Vô cảm: Mê nội khí quản thường. Có 
monitor theo dõi SaO2. Bóp bóng “vừa phải” đảm 
bảo SaO2 > 90%. 
- Tư thế: Bệnh nhân nằm ngửa, hai tay dang 
ngang 900, không cần độn gối nhỏ dưới vai, nằm 
đầu cao (semi-Fowler). 
- Vị trí vào ngực: Rạch da 10mm, đặt trocar 
10mm cho camera ở liên sườn IV đường nách 
giữa quan sát khoang lồng ngực, 1 trocar 5mm ở 
liên sườn 3 nách giữa để đưa dụng cụ thao tác. 
- Nhận diện đầu xương sườn số 2,3,4 và chuỗi 
hạch thần kinh giao cảm cạnh cột sống. Cắt hạch 
thần kinh giao cảm số 3,4. 
- Kiểm tra chảy máu và bóp bóng cho phổi 
nở. 
- Đuổi khí, không cần dẫn lưu màng phổi trừ 
trường hợp có biến chứng 
- Phẫu thuật tương tự với bên đối diện. 
Những lưu ý trong khi thực hiện phẫu thuật 
- Thời điểm đặt Trocart: gây mê bóp bóng nhẹ 
“vừa phải” để tránh tổn thương phổi khi đặt 
trocart. 
- Thời điểm đốt hạch giao cảm ngực: gây mê 
bóp bóng nhẹ “vừa phải”, sử dụng đầu cao để có 
khoảng trống vùng đỉnh khoang màng phổi để 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 449
thao tác. Nhất là trong các trường hợp cắt hạch 
giao cảm ngực T4. 
- Nếu có dày dính màng phổi: có thể đặt 
thêm 1 ngõ vào 5mm để dễ bóc tách gỡ dính 
màng phổi. Sau mổ có thể bóp bóng đuổi khí hay 
đặt dẫn lưu màng phổi. 
Hậu phẫu 
Chụp X-quang phổi kiểm tra đánh giá phổi 
nở hoàn toàn hay có tràn khí màng phổi 
* Đánh giá hiệu quả phẫu thuật cắt hạch thần 
kinh giao cảm ngực: Ghi nhận kết quả phẫu thuật: 
tay ấm, tay khô; các tai biến, biến chứng 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ 01-2009 đến 10‐2010 có 
16 bệnh nhân tăng tiết mồ hôi tay, nách được 
phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. 
Trong đó có 7 trường hợp tăng tiết mồ hôi tay 
đơn thuần, 9 trường hợp tăng tiết mồ hôi tay và 
nách. 
Tuổi 
Thấp nhất: 15, cao nhất: 31, Trung bình 21 
± 2,4 
Giới tính 
Có 10 nữ; 6 nam. Nam/nữ: 0,6 
Nghề nghiệp 
Sinh viên, học sinh: 12 (75%) 
Nghề văn phòng: 4 (25%) 
Kết quả phẫu thuật 
- Khả năng phân định hạch thần kinh giao 
cảm ngực 
 Mồ hôi tay Mồ hôi tay + nách
Hạch T3 7 9 
Hạch T4 7 
Tất cả 16 BN đều quan sát rõ thấy dây giao 
cảm và phân định được hạch T3. 7 BN đổ mồ hôi 
tay đơn thuần chỉ cắt đốt hạch T3. 9 BN đổ mồ 
hôi tay-nách được đốt thêm hạch T4, tuy nhiên 
chỉ đốt được ở 7 BN. 
- Thời gian mổ trung bình: 20 phút (15 – 40) 
- Thời gian nằm viện: 2 ngày 
- Tỷ lệ khô tay và nách sau mổ: sau mổ 100% 
BN hoàn toàn hài lòng về mức độ khô tay và 
nách. 
Tai biến – Biến chứng – Thất bại 
Không có BN nào tử vong, không có trường 
hợp nào thất bại. 
Khó khăn trong mổ: tất cả 16 BN đều không 
gặp vấn đề phổi dính nên không cần vào trocar 
thứ 3. Có 1 TH chảy máu do đứt dây chằng đỉnh 
phổi cả 2 bên và được kẹp đốt dễ dàng qua nội 
soi. 1 TH cần phải dẫn lưu màng phổi P do đốt 
phạm mạch máu, tuy cầm máu được nhưng vẫn 
dẫn lưu dự phòng và được rút vào ngày hôm 
sau. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng 
Nghiên cứu chúng tôi, tuy số lượng không 
nhiều, nhưng cũng như các tác giả khác đa số BN 
là người trẻ và không chênh lệch nhiều về giới. 
Kết quả điều trị 
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ khô tay cao, 100%. 
Có lẽ khả năng phân định dễ dàng hạch thần 
kinh giao cảm ngực T3 nên không bỏ sót khi đốt(3, 
4). 
Đối với nhóm tăng tiết mồ hôi tay và nách, 
khả năng phân định hạch thần kinh T4 có khó 
khăn hơn. Chỉ thực hiện cắt đốt T4 trong số 7/9 
TH. Tuy nhiên theo dõi sau mổ chúng tôi ghi 
nhận tay và nách đều giảm tiết mồ hôi, và tất cả 
BN đều hài lòng. 
Vấn đề đổ mồ hôi bù trừ sau mổ: ngay sau mổ 
hầu như không có BN than phiền gì nhiều. Có 8 
BN tái khám cho biết có ra mồ hôi bù trừ vùng 
lưng bụng. 6 BN cho biết có thể chấp nhận được, 
còn 2 BN than phiền là có chịu khi ra mồ hôi bù 
trừ nhiều. 
Những thuận lợi và khó khăn 
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá 
khả năng của phẫu thuật nội soi cắt hạch giao 
cảm ngực áp dụng gây mê nội khí quản 1 nòng, 
do đó chỉ phân tích lợi điểm và bất lợi của kỹ 
thuật này. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 450 
Mê nội khí quản hai nòng 
Trong phẫu thuật nội soi lồng ngực không 
cần sử dụng CO2,nhưng cần xẹp phổi bên phẫu 
thuật để có khoảng trống thao tác. Việc gây mê 
bằng nội khí quản hai nòng để thông khí từng 
bên phổi trong lúc phẫu thuật là hết sức cần 
thiết. Trong thời gian phẫu thuật việc theo dõi 
SaO2 trên monitor rất quan trọng để đánh giá 
thông khí của phổi còn lại có đủ đảm bảo cho 
cuộc mổ. 
Khoảng trống tạo ra được do phổi xẹp 
không những giúp chúng ta có khoảng trống để 
thực hiện phẫu thuật mà còn giúp chúng ta có 
thể xử lý được các trường hợp khó như dày dính 
màng phổi, chảy máu... 
Gây mê bằng ống nội khí quản “thường” 
Đối với phẫu thuật nội soi lồng ngực cần xẹp 
phổi bên phẫu thuật để có khoảng trống thao 
tác. Tuy nhiên đối với phẫu thuật cắt hạch thần 
kinh giao cảm ngực là phẫu thuật tương đối đơn 
giản, vùng thao tác chủ yếu ở đỉnh khoang 
màng phổi. Nên có thể sử dụng ống nội khí 
quản “thường” với monitor theo dõi SaO2, thông 
khí ở mức độ “vừa phải” đủ để thông khí duy 
trì SaO2 >90%. Khi đó phổi có khuynh hướng 
“xẹp” về vùng rốn, giúp cho chúng ta thao tác 
được ở vùng đỉnh khoang màng phổi. Trong 
phẫu thuật lồng ngực và nội soi lồng ngực, việc 
đặt ống nội khí quản hai nòng là một thách thức 
lớn đối với gây mê hồi sức không những về kỹ 
thuật đặt, lựa chọn kích cỡ ống phù hợp với 
bệnh nhân, sang chấn khi đặt, tắc đàm nhớt...mà 
còn chi phí khá lớn cho ống nội khí quản hai 
nòng. Gây mê bằng ống nội khí quản “thường” 
giúp cho việc gây mê “đơn giản” hơn và đỡ tốn 
kém hơn. 
* Cần lưu ý khi phổi xẹp không tốt, ta có thể 
cho bệnh nhân nằm tư thế Fowler hay đưa thêm 
dụng cụ vào để vén phổi giúp cho thao tác được 
tốt. Trường hợp có biến chứng chảy máu thì việc 
khắc phục sẽ khó khăn hơn vì khoảng trống 
thao tác rất ít. Tuy nhiên, chúng tôi chưa gặp 
biến chứng chảy máu trầm trọng nào cần phải 
mở ngực để cầm máu(3,5). Tương tự nhiều báo 
cáo của các tác giả khác 
Từ năm 2002 đến năm 2005, tác giả Daniel L 
và cs(1) cũng đã thực hiện thành công 205 ca cắt 
hạch thần kinh giao cảm ngực nội soi với gây mê 
nội khí quản 1 nòng. Tác giả này cũng cho biết 
điều kiện bất lợi về nội khí quản 2 nòng tại cơ sở 
y tế là lý do ông nghiên cứu đơn giản hóa kỹ 
thuật gây mê. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy với gây 
mê nội khí quản thường thì cũng không gặp khó 
khăn gì trong lúc thực hiện phẫu thuật. Quá 
trình phẫu thuật được thực hiện an toàn với độ 
bảo hòa oxy > 90% cho thông khí 2 phổi (thở 
máy áp lực thấp, tần số thở cao). Tương tự 
nghiên cứu của tác giả khác(1, 6). 
Cải tiến này giúp cho phẫu thuật nội soi cắt 
hạch giao cảm ngực “đơn giản” hơn, phù hợp 
với hoàn cảnh ở Việt Nam còn thiếu trang thiết 
bị chuyên dùng. Nhưng cần thận trọng, và chỉ 
áp dụng khi phẫu thuật viên có kinh nghiệm. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật nội soi cắt hạch giao cảm ngực 
T3 hoặc T3,4 trong điều trị bệnh tăng tiết mồ hôi 
tay – nách có thể thực hiện dễ dàng và an toàn 
với gây mê nội khí quản 1 nòng. Trường hợp 
bệnh nhân có yếu tố nghi ngờ dính phổi, nên 
xem xét đặt nội khí quản 2 nòng để quá trình 
phẫu thuật được thuận lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Daniel L. Miller, MD*, Seth D. Force, MD. (2007). Outpatient 
Microthoracoscopic Sympathectomy for Palmar 
Hyperhidrosis. Ann Thorac Surg;83:1850-1853 
2. Huỳnh Quang Khánh, Nguyễn Công Minh, Hoàng Văn 
Thiệp và cs (2004): “ Các biến chứng sớm trong phẫu thuật 
nội soi lồng ngực”. Hội nghị nội soi và phẫu thuật nội soi. 
ĐHYD TP. HCM: 418-425. 
3. Lê Phi Long (2007). “Nghiên cứu giảm mồ hôi bù trừ sau mổ 
cắt hạch giao cảm điều trị tăng tiết mồ hôi tay”. Tạp chí Y học 
TP.Hồ Chí Minh. Vol 1 Phụ bản 1 2007. 
4. Moya J, Ramos R, Morera R. (2006). Results of high bilateral 
endoscopic thoracic sympathectomy and sympatholysis in 
the treatment of primary hyperhidrosis: a study of 1016 
procedures. Arch Bronconeumol 2006 May;42(5): 230 
5. Nguyễn Hoài Nam (2003). “Những cải tiến trong điều trị 
chứng tăng tiết mồ hôi tay bằng phẫu thuật nội soi lồng 
ngực”. Y Hoc TP.Hồ Chí Minh * Vol. 7 * Supplement of No 1: 
31 – 35. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 451
6. Tu Yuan-rong,, Li Xu, Lin min,Lai Fan-cai, Chen Jian-feng. 
(2009) Endoscopic Thoracic Sympathectomy for Palmar 
Hyperhidrosis: a Retrospective Review of 826 cases. 
Department of Thoracic Surgery, The First Affiliated Hospital 
of Fujian Medical University,Fuzhou, 350-355. 
7. Văn Tần(2000), “Cải tiến phẫu thuật nội soi lồng ngực để điều 
trị chảy mồ hôi tay” Toàn văn báo cáo tổng kết nghiên cứu 
khoa học và cải tiến kỹ thuật 10 năm tại bệnh viện Bình Dân: 
157-162.