Đặt vấn đề và mục tiêu: Nghiên cứu hồi cứu kết quả và biến chứng của nội soi thận qua da (NSTQD)
điều trị ngoại khoa sỏi san hô trong 10 năm tại bệnh viện Việt Pháp Hà Nội (HFH).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong 10 năm, từ 2001-2011, 268 bệnh nhân có sỏi san hô đã
được điều trị bằng phương pháp NSTQD tại bệnh viện Việt Pháp. Tỷ lệ nam/ nữ là 158/110. Tuổi trung bình:
48,7 (20-85). Tất cả các bệnh nhân được nghiên cứu các dữ liệu trước – trong và sau mổ. Phẫu thuật bao gồm
hai loại: NSTQD đơn thuần hoặc NSTQD phối hợp với TSNCT (tán sỏi ngoài cơ thể). Đánh giá kết quả thành
công nếu hết sỏi hoặc còn mảnh sỏi < 5mm. Thất bại nếu phải chuyển mổ mở lấy sỏi.
Kết quả: Tổng số 280 sỏi san hô trong đó 217 trường hợp (77,5%) là sỏi san hô toàn phần, kích thước sỏi
trung bình 55,6mm (25-126), 27 thận đơn độc, 12 sỏi san hô hai bên, 38 bệnh nhân có tiền sử ngoại khoa (trong
đó 21 trường hợp đã mổ thận lấy sỏi cùng bên, 8 bệnh nhân đã được cắt cực dưới thận và 9 tán sỏi ngoài cơ
thể).Thời gian mổ trung bình: 72 phút (40-120), thời gian nằm viện 4,5 ngày (3-17). Tỷ lệ thành công của
NSTQD đơn thuần là 75,36% (211/280 ca) và 90,36% (253/280 ca) của NSTQD phối hợp với TSNCT. Duy
nhất 1 trường hợp thất bại phải chuyển sang mổ mở 0,36% (1/280 ca). Các biến chứng được ghi nhận: tổn
thương động mạch thận 2,5% (7/280 ca) trong đó 2 trường hợp phải cắt thận cầm máu và 5 trường hợp được
gây tắc mạch thận chọn lọc. Thủng đại tràng sau phúc mạc: 1,07% (3/280 ca). Cơn đau quặn thận 1,79%
(5/280 ca). Nhiễm trùng tiết niệu có sốt > 38,5ºC: 5,07% (17/280 ca).
Kết luận: Nội soi thận qua da là lựa chọn đầu tiên trong điều trị ngoại khoa sỏi san hô do tính hiệu quả, độ
an toàn cao và tỷ lệ biến chứng thấp. Sự phối hợp giữa NSTQD với TSNCT cho phép nâng tỷ lệ thành công lên
tới 90,36%. Chúng ta cần có dự án để phổ cập và phát triển nội soi thận qua da trong điều trị sỏi san hô tại Việt
Nam.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội soi thận qua da điều trị sỏi san hô: 10 năm kinh nghiệm của Bệnh viện Việt pháp Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 249
NỘI SOI THẬN QUA DA ĐIỀU TRỊ SỎI SAN HÔ: 10 NĂM KINH NGHIỆM
CỦA BỆNH VIỆN VIỆT PHÁP HÀ NỘI
Lê Sĩ Trung*, Barbe Y.P*, Bire J*, Buttin F.X*, Delorme E*, Lienhart J*, Lombard M*, Mege J *,
Mettetal P*, Parietti R*, Sarkissian J*, Schoenahl C*, Trackoёn G*, Vantherin R*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Nghiên cứu hồi cứu kết quả và biến chứng của nội soi thận qua da (NSTQD)
điều trị ngoại khoa sỏi san hô trong 10 năm tại bệnh viện Việt Pháp Hà Nội (HFH).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong 10 năm, từ 2001-2011, 268 bệnh nhân có sỏi san hô đã
được điều trị bằng phương pháp NSTQD tại bệnh viện Việt Pháp. Tỷ lệ nam/ nữ là 158/110. Tuổi trung bình:
48,7 (20-85). Tất cả các bệnh nhân được nghiên cứu các dữ liệu trước – trong và sau mổ. Phẫu thuật bao gồm
hai loại: NSTQD đơn thuần hoặc NSTQD phối hợp với TSNCT (tán sỏi ngoài cơ thể). Đánh giá kết quả thành
công nếu hết sỏi hoặc còn mảnh sỏi < 5mm. Thất bại nếu phải chuyển mổ mở lấy sỏi.
Kết quả: Tổng số 280 sỏi san hô trong đó 217 trường hợp (77,5%) là sỏi san hô toàn phần, kích thước sỏi
trung bình 55,6mm (25-126), 27 thận đơn độc, 12 sỏi san hô hai bên, 38 bệnh nhân có tiền sử ngoại khoa (trong
đó 21 trường hợp đã mổ thận lấy sỏi cùng bên, 8 bệnh nhân đã được cắt cực dưới thận và 9 tán sỏi ngoài cơ
thể).Thời gian mổ trung bình: 72 phút (40-120), thời gian nằm viện 4,5 ngày (3-17). Tỷ lệ thành công của
NSTQD đơn thuần là 75,36% (211/280 ca) và 90,36% (253/280 ca) của NSTQD phối hợp với TSNCT. Duy
nhất 1 trường hợp thất bại phải chuyển sang mổ mở 0,36% (1/280 ca). Các biến chứng được ghi nhận: tổn
thương động mạch thận 2,5% (7/280 ca) trong đó 2 trường hợp phải cắt thận cầm máu và 5 trường hợp được
gây tắc mạch thận chọn lọc. Thủng đại tràng sau phúc mạc: 1,07% (3/280 ca). Cơn đau quặn thận 1,79%
(5/280 ca). Nhiễm trùng tiết niệu có sốt > 38,5ºC: 5,07% (17/280 ca).
Kết luận: Nội soi thận qua da là lựa chọn đầu tiên trong điều trị ngoại khoa sỏi san hô do tính hiệu quả, độ
an toàn cao và tỷ lệ biến chứng thấp. Sự phối hợp giữa NSTQD với TSNCT cho phép nâng tỷ lệ thành công lên
tới 90,36%. Chúng ta cần có dự án để phổ cập và phát triển nội soi thận qua da trong điều trị sỏi san hô tại Việt
Nam.
Từ khóa: Sỏi san hô, nội soi thận qua da, tán sỏi ngoài cơ thể.
ABSTRACT
PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTOMY FOR STAGHORN CALCULUS: 10 YEARS OF
EXPERIENCE ATHFH
Le Si Trung, Barbe Y.P, Bire J, Buttin F.X, Delorme E, Lienhart J, Lombard M, Mege J ,
Mettetal P, Parietti R, Sarkissian J, Schoenahl C, Trackoёn G, Vantherin R
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 250 - 255
Introduction and Objective: Retrospective evaluation of efficacy and complications of percutaneous
nephrolithotomy (P.C.N.L) in the surgical treatment of staghorn calculus during 10 years at Hanoi French
Hospital (HFH).
Material and method: From 2001-2011, 268 patients suffering from staghor calculus were treated at HFH
* Bệnh viện Việt Pháp Hà Nội
Tác giả liên lạc: BS. Lê Sĩ Trung ĐT: 09 151 55555 Email: lesitrung@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 250
by P.C.N.L. They are 158 males and 110 female. Average age is 48.7 (20-85). All the patients were evaluated: pre
– per - post intervention information. The intervention including either P.C.N.L monotherapy or combination
P.C.N.L/E.S.W.L (Extracorporeal shock wave lithotripsy). The success of intervention is defined as stone free or
residual fragment <5mm. The recount by open surgical nephrolithotomy is considered as failed.
Results: There have been 280 staghorn calculus of which 217 (77.5%) were completedstaghorn calculus,
average size of stone is 55.6mm (25-126), 27 unique kidney, 12 bilateral staghorn calculus, 38 cases having
previous surgical history (21 homolateral surgical nephrolithotomy, 8 inferior polar nephrectomy, 9 E.S.W.L. The
operating time of P.C.N.L was 72 minutes (rang 40-120 minutes), the average duration of hospitalization was 4.5
days (rang 3-17 days). The success rate is 75,36% (211/280 cases) for P.C.N.L monotherapy and 90.36%
(253/280 cases) for combination P.C.N.L/E.S.W.L. The fail rate is 0.36% (1/280 cases).Complications are noted:
Artery lesion 2.5% (7/280 cases) which 02 cases requiring nephrectomy hemostasis. 05 embolisations. Colic
perforation retroperitoneal: 1.07 % (3/280 cases). Retroperitoneal uro-hematoma was seen in 2.5 % (7/280 cases).
Nephritic colic:1.79 % (5/280 cases). Febrile urinary infection > 38.5ºC: 5.07 % (17/280 cases).
Conclusion: P.C.N.L is the first choice for surgical treatment of staghorn calculus due to its safety, low
complication, feasibility and effectiveness. Combination P.C.N.L/ E.S.W.L allows to increase the rate success up
to 90.36%. We have to have a project for developing NLPC in the treatment of staghorn calculus in Vietnam.
Key words: Staghorn calculus, Percutaneous nephrothotomy, Extracorporeal shock wave lithotripsy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi tiết niệu chiếm tỷ lệ cao nhất (>40%)
trong các bệnh lý về đường tiết niệu, trong đó
sỏi san hô - một dạng sỏi phức tạp nhất - lại
chiếm một tỷ lệ không nhỏ (>30%)(3,4,7,8,11,).
Trên thế giới, tại các nước phát triển, ngay từ
thập kỉ 80, nội soi thận qua da (NSTQD) đã
được coi là tiêu chuẩn vàng trong điều trị sỏi
san hô(3,7,8). Đây là một phẫu thuật ít xâm hại, tỉ
lệ biến chứng thấp, thời gian nằm viện ngắn và
có thể thay thế cho hầu hết các phẫu thuật
mở(2,3,7,8).
Điều trị ngoại khoa sỏi san hô tại Việt Nam
hiện nay chủ yếu vẫn là mổ mở. Đây là một
phẫu thuật nặng nề với thời gian nằm viện kéo
dài và có những ảnh hưởng xấu tới chức năng
thận (2,3,5,4,11).
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh
giá kết quả của phương pháp NSTQD trong
điều trị sỏi san hô tại bệnh viện Việt Pháp Hà
Nội (HFH) qua 10 năm từ 2001-2011.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu 268 bệnh nhân sỏi san
hô đã được điều trị bằng phương pháp NSTQD
tại HFH từ 2001-2011.
Thu thập các dữ liệu lâm sàng, X quang, cấy
nước tiểu, chức năng thận trước và sau mổ.
Phân loại sỏi san hô
Sỏi san hô toàn phần: sỏi chiếm toàn bộ bể
thận và các đài thận.
Sỏi san hô bán phần: gồm sỏi bể thận và ít
nhất một đài thận.
Nội soi thận qua da
Gây mê toàn thân.
Đặt sonde niệu quản, bơm hỗn dịch Xanh
Methylen và thuốc cản quang lên đài bể thận.
Chuyển tư thế nằm sấp, chọc dò và nong
đường hầm vào thận dưới sự kiểm soát của màn
Rx.
Đặt máy nội soi thận qua đường hầm vào
khoang thận để tiến hành tán sỏi và lấy mảnh
sỏi ra bằng Calculson, Lithoclast và Pince.
Đặt dẫn lưu thận.
Tán sỏi ngoài cơ thể (TSNCT)
Gây mê toàn thân.
Sử dụng máy tán sỏi Direx với công suất 22
Kw, tối đa 3000 lần sóng xung kích.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 251
Đánh giá kết quả
Tốt: Hết sỏi hoặc còn mảnh sỏi <5 mm và
không có triệu chứng lâm sàng.
Khá: Còn sỏi >5 mm, cần điều trị phối hợp
với TSNCT hoặc nội soi niệu quản.
Thất bại: Phải chuyển mổ mở.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
Tổng số 268 bệnh nhân. Nam/Nữ: 158/110.
Tuổi trung bình 48,7 tuổi (20-85).
Kích thước sỏi trung bình 55,6mm(25-126).
Sỏi san hô cả hai bên: 12 bệnh nhân.
Tổng số sỏi 280 trong đó sỏi san hô toàn
phần: 217 ca (77,5 %), sỏi san hô bán phần: 63 ca
(22,5%).
Sỏi san hô trên thận độc nhất: 27/280 ca (9,64
%).
Tiền sử can thiệp ngoại khoa trên cùng thận
có sỏi 38/280 ca (13,57 %). (Mổ thận lấy sỏi: 21, cắt
cực dưới thận: 8, TSNCT: 9).
Phẫu thuật
NSTQD đơn thuần: 328 lần trong đó:
+1 NLPC: 232 ca.
+2 NLPC: 48 ca.
Số đường hầm vào thận
+1 đường hầm (qua đài dưới): 253/280 ca
(90,36%).
+2 đường hầm (qua đài dưới và đài giữa):
27/280 ca (9,64%).
NSTQD phối hợp
+NSTQD + TSNCT: 89 ca.
+NSTQD + Nội soi niệu quản: 04 ca.
+NSTQD + Sonde JJ: 42 ca.
Kết quả
Thời gian mổ trung bình: 72 phút (40-120).
Thời gian nằm viện trung bình: 4,5 ngày (3 -
17).
Tốt:
+NSTQD đơn thuần: 211/280 ca (75,36%).
+NSTQD phối hợp với TSNCT: 253/280 ca
(90,36 %).
Khá: 68/280 ca (24,28%), còn sỏi > 5mm cần
tiếp tục TSNCT.
Thất bại: 1/ 280 (0,36 %) phải chuyển mổ mở.
Biến chứng
Chảy máu
Cắt thận cầm máu: 02/ 280 ca (0,71 %).
Gây tắc mạch thận chọn lọc: 05/280 ca
(1,78%).
Mất máu phải truyền máu: 15/280 ca (5,36%).
Thủng đại tràng sau phúc mạc: 03/280 ca
(1,07%).
Tụ máu và nước tiểu quanh thận: 7/280 ca
(2,5%) trong đó có 1 ca phải dẫn lưu sau phúc
mạc.
Cơn đau quặn thận: 05/208 cas (1,78 %) (4 nội
soi niệu quản).
Nhiễm khuẩn tiết niệu có sốt > 38,5o: 17/280
ca (6,07 %).
BÀN LUẬN
Thực trạng phẫu thuật NSTQD trong điều
trị sỏi san hô tại Việt Nam
Trên thế giới, tại các nước phát triển, ngay từ
thập kỉ 80, NSTQD đã được coi là tiêu chuẩn
vàng trong điều trị sỏi san hô(3,7,8). Đây là một
phẫu thuật ít xâm hại, tỉ lệ biến chứng thấp, thời
gian nằm viện ngắn và có thể thay thế cho hầu
hết các phẫu thuật mở(2,3,7,8).
Nghiên cứu đầu tiên về NSTQD ở Việt Nam
xuất bản tháng 12/2000 của Nguyễn Tuấn Vinh,
Bệnh viện Bình Dân, thành phố Hồ Chí Minh(6).
Tiếp theo là báo cáo của Lê Sĩ Trung, HFH, tại
Hội nghị Ngoại khoa Quốc gia Việt Nam lần thứ
12 năm 2002(11). Cho đến nay, NSTQD đã được
thực hiện tại một số trung tâm tiết niệu lớn ở Hà
Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
Phẫu thuật mở kinh điển được sử dụng như
một lựa chọn đầu tiên trong điều trị sỏi san hô tại
Việt Nam. Ngay tại các bệnh viện lớn - nơi đã áp
dụng thường quy phương pháp NSTQD - tỉ lệ nội
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 252
soi trong điều trị sỏi san hô còn rất khiêm tốn do
tính phức tạp của sỏi và sự dè dặt, thận trọng của
các phẫu thuật viên (2,3,5,4,6,11).
Tại Bệnh viện Bình Dân, thành phố Hồ Chí
Minh, số liệu của phòng kế hoạch tổng hợp cho
thấy trong thời gian từ tháng 12/2006 đến 03/2010
số sỏi san hô thận được mổ là 324, trong đó số ca
NSTQD chỉ là 16 ca (4,9 %). Số ca mổ mở là 308
ca (95,1 %)(5).
Khoa Tiết niệu Bệnh viện Việt Đức Hà Nội
tổng kết 5 năm từ 2005-2009 thực hiện 78 ca
NSTQD trong đó 1 ca (1,3%) là sỏi san hô (11).
Bệnh viện Trung ương Huế ứng dụng thành
công 67 trường hợp NSTQD trong đó có 17 sỏi
san hô (25,4%) từ 08/2007-05/2010(2).
Tại HFH, trong loạt nghiên cứu đầu tiên về
NSTSQD năm 2002 có 28/ 48 ca (68,3%) sỏi san
hô(1). Một nghiên cứu khác cũng tại HFH về
NSTQD đã được công bố năm 2004 có 152/195 ca
(78%) bệnh nhân sỏi san hô(2).
Phẫu thuật NSTQD
Chọc dò và nong đường hầm vào thận
Tất cả các trường hợp NSTQD tại HFH đều
thực hiện theo một quy trình thống nhất trong đó
việc chọc dò và nong đường hầm được tiến hành
bằng kim Chiba, dây dẫn Road Runner, bộ nong
Alken dưới sự kiểm soát của X-Ray. Quy trình
nghiêm ngặt này cho phép chúng tôi đạt tỉ lệ
thành công gần như tuyệt đối, ngoại trừ duy nhất
01 trường hợp thất bại phải chuyển mổ mở
(Calice Exclu) chiếm 0,36 %. Tỉ lệ này tại bệnh
viện Bình Dân là 13,6 % (76/451 ca) với sỏi thận
và 21,5 % (14/51 ca) với sỏi niệu quản(4). Tương tự,
tỉ lệ mổ mở của Bệnh viện Việt Đức là 7,6 % (6/78
ca)(11) và Bệnh viện Trung ương Huế là 19,4 %
(13/67 ca)(2).
Đặt dây dẫn an toàn qua đường hầm xuống
niệu quản cho phép loại trừ nguy cơ thất bại xảy
ra do lạc đường hầm trong quá trình phẫu
thuật(2,3). Trong thời gian đầu khi mới áp dụng
phương pháp NSTQD, do chưa ý thức được tầm
quan trọng của vấn đề này chúng tôi đã gặp 5
trường hợp bị lạc đường hầm trong đó 3 trường
hợp tìm lại được đường hầm, 2 trường hợp còn lại
phải chọc dò và làm đường hầm mới. Dây dẫn an
toàn được đặt xuống niệu quản ngay từ đầu qua
thì chọc dò hoặc sau khi đã tán sỏi đến bể thận.
Chúng tôi thống nhất quan điểm của các tác
giả Pháp - Mỹ về xu hướng giảm thiểu tính xâm
hại của phẫu thuật bằng việc thu nhỏ đường hầm
vào thận (Miniperc, la mini NLPC, NLPC
Tubeless)(7,9,8). Đặc biệt trong những trường hợp
nhu mô thận còn dày, đài bể thận không giãn
hoặc giãn ít (nhỏ hơn kích thước gaine Amplatz
30 Ch) nguy cơ chảy máu sẽ rất cao nếu thực hiện
theo kỹ thuật NSTQD kinh điển(2,3,7,9,8). Trong các
tình huống này, chúng tôi chủ động khống chế
nguy cơ chảy máu bằng việc đặt trực tiếp ống soi
thận vào đường hầm thay vì đặt qua gaine
Amplatz. Điều đó cho phép thu nhỏ kích thước
đường hầm vào thận từ 30 Ch xuống 26 Ch thậm
chí giảm đến 12 Ch nếu không sử dụng gaine của
ống soi thận mà chỉ dùng trực tiếp dụng cụ tán
sỏi khi tiếp cận từ bể thận vào đài trên hoặc đài
giữa.
Chúng tôi không có kinh nghiệm về kỹ thuật
mở lưng tối thiểu trong NSTQD
(Minilombotomie/ NLPC) và cho rằng phương
pháp này có thể làm tăng tính nặng nề nếu có
biến chứng do mất đi tính kín đáo của phẫu thuật
nội soi với đường hầm nhỏ(2,3,7,9,8). Hơn nữa, có vẻ
như, cách làm này đi ngược với xu thế chung của
thế giới: “NLPC tubeless”.
Số lượng đường hầm vào thận
Trong NSTQD, số đường hầm vào thận tỉ lệ
thuận với tỉ lệ hết sỏi, nhưng thật không may là
với cả số lượng biến chứng tăng lên(2,3,7,9,8). Chúng
tôi chủ trương giảm tối đa tỉ lệ biến chứng tuy
nhiên vẫn tăng tỉ lệ hết sỏi dựa vào việc giảm tối
đa số đường hầm vào thận đồng thời mở rộng chỉ
định TSNCT phối hợp(2,3).
Cho dù với tỉ lệ sỏi san hô toàn phần cao
(77,5 %), chúng tôi chỉ bắt buộc phải sử dụng số
lượng 2 đường hầm vào đài dưới và đài giữa
trong 27/280 ca (9,64 %) giúp việc lấy tối đa sỏi.
Số lượng 1 đường hầm vào thận qua đài dưới được
thực hiện trong 253/280 ca (90,36 %) cho phép lấy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 253
sỏi trên trục đài dưới – bể thận – đài trên và một
phần đài giữa nhất là trong trường hợp đài bể
thận giãn.
NSTQD thì 2 (48 ca)
NSTSQD thì 2 theo kế hoạch (31 ca) là những
trường hợp đã được lên kế hoạch trước mổ, do
tính phức tạp hoặc kích thước sỏi quá lớn nhằm
tránh việc kéo dài thời gian trong mỗi cuộc mổ để
đảm bảo an toàn tối đa cho bệnh nhân (3).
NSTSQD thì 2 theo hoàn cảnh (17 ca) bao gồm:
2 ca được phát hiện có ứ mủ thận sau khi làm
đường hầm. Bệnh nhân được dẫn lưu thận, kháng
sinh và nội soi tiến hành sau 3 ngày với kết quả
tốt. 15 ca còn lại do tình trạng chảy máu nhiều,
đột ngột trong quá trình tán sỏi và đã áp dụng
các biện pháp cầm máu tạm thời không kết quả.
Bệnh nhân được ngừng phẫu thuật, đặt và kẹp
dẫn lưu thận. Nội soi thì 2 được tiến hành sau 2- 3
ngày qua đường hẫm cũ. Tất cả các lần nội soi thì
2 đều rất thuận lợi, không chảy máu.
Phối hợp NSTQD/ TSNCT
Sự phối hợp NSTQD/TSNCT với mục đích
làm tăng tỉ lệ hết sỏi trong điều trị ngoại khoa sỏi
san hô đã được rất nhiều tác giả trên thế giới quan
tâm(3,7,9,8,10).
Chiến lược phối hợp hai phương pháp này
của chúng tôi có điểm khác biệt với công thức
“Sandwich” khá nổi tiếng của Streem năm 1987.
Trong khi Streem áp dụng “NSTQD – TSNCT –
NSTQD” và nhấn mạnh rằng NSTQD phải luôn
là phương pháp điều trị sau cùng(10). Chúng tôi chủ
trương: “NSTQD – TSNCT” hoặc “NSTQD –
NSTQD – TSNCT”. Sự khác biệt ở chỗ chúng tôi
luôn sử dụng TSNCT là phương pháp điều trị sau
cùng dành cho những mảnh sỏi không thể tiếp
cận được bằng NSTQD hoặc trong trường hợp
đặc biệt khi không kịp lấy hết sỏi do phải ngừng
phẫu thuật sớm vì chảy máu nặng, đột ngột trong
mổ. Thì 2 của NSTQD (nếu cần) sẽ luôn được tiến
hành vào ngày thứ 2 – 3 sau lần nội soi thứ nhất
và sử dụng lại chính đường hầm vào thận cũ.
Với 89 lần tiến hành TSNCT phối hợp
chúng tôi đã nâng tỉ lệ hết sỏi lên đến 90,36%
(253/280 ca) so với 75,36 % (211/280 ca) nếu
thực hiện NSTQD đơn thuần. Tỉ lệ này của
Streem và cộng sự là 63% (55/87 ca)(10).
Kết quả
Thời gian mổ trung bình: 72 phút. Thới
gian nằm viện: 4,5 ngày. Kết quả tốt với
NSTQD đơn thuần là 75,36%, tỉ lệ này được
tăng lên 90,36% khi phối hợp hai phương
pháp. Duy nhất 1 trường hợp thất bại phải
chuyển mổ mở (0,36%) do dị dạng giải phẫu
(Calice Exclu).
Số lượng biến chứng cần can thiệp ngoại
khoa là 15/280 ca (5,36%) trong đó 2/280 ca
(0,71%) phải cắt thận cầm máu. 5/280 ca
(1,78%) được gây tắc mạch thận chọn lọc. 3/280
ca (1,07%) có thủng đại tràng sau phúc mạc
được điều trị bảo tồn có kết quả tốt. 4/280 ca
(1,43%) cơn đau quặn thận được điều trị bằng
nội soi niệu quản.
Các biến chứng cần điều trị nội khoa bao
gồm 39/280 ca (13,93%). Trong đó tỉ lệ hay gặp
nhất là nhiễm khuẩn tiết niệu có sốt >38,5 0C.
Tất cả các trường hợp đều đáp ứng tốt theo
kháng sinh đồ. Vi khuẩn thường gặp là: E.Coli,
Proteus, EnterobacterĐặc biệt, chúng tôi gặp 2
trường hợp Pseudomonas đa kháng thuốc được
điều trị có kết quả với Tienam, Fosfocine. Cả 2
bệnh nhân này đều có tiền sử mổ thận lấy sỏi.
Số lượng bệnh nhân mất máu cần truyền máu
là 15/280 ca (5,36%).
KẾT LUẬN
NSTSQD là phương pháp can thiệp ngoại
khoa ít xâm hại, hiệu quả cao với tỷ lệ biến chứng
thấp. Đây được coi là lựa chọn đầu tiên trong điều
trị sỏi san hô.
Việc phối hợp giữa NSTSQD và TSNCT cho
phép tăng tỷ lệ hết sỏi lên đến 90,36%.
Cần có một kế hoạch cho sự phát triển và phổ
cập kỹ thuật NSTQD trong điều trị ngoại khoa sỏi
san hô ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Sĩ Trung (2002). Đánh giá kết quả bước đầu phương pháp nội soi
tán sỏi qua da phối hợp với tán sỏi ngoài cơ thể trong điều trị ngoại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 254
khoa sỏi tiết niệu. Tạp chí Ngoại khoa, kỷ yếu toàn văn các đề tài
khoa học tham gia hội nghị Ngoại khoa quốc gia Việt Nam lần thứ
12: tr.279-283.
2. Lê Sĩ Trung (2004). Biến chứng nội soi thận qua da nhân 215 trường
hợp. Tạp chí Y học Thực hành, 419: tr.561– 563
3. Lê Sĩ Trung (2004). Phẫu thuật nội soi thận qua da. Nhà xuất bản Y
học. Hà Nội, 2004. 218 trang.
4. Nguyễn đạo Thuấn, Vũ Văn Ty, Nguyễn Văn Hiệp, Vũ Lê Chuyên,
Dào Quang Oánh, Nguyễn Tuấn Vinh, Vĩnh Tuấn, Lê Sĩ Hùng,
Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Đỗ Anh Toàn (2005). Kết quả lấy sỏi
thận, niệu quản nội soi qua da trên 622 bệnh nhân. Y học Việt Nam.
Tập 313: tr. 85 – 91.
5. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Trần Thanh Nhân, Lê Anh Tuấn,
Chung Tuấn Khiêm, Vũ Lê Chuyên, Nguyễn Việt Cường (2011).
Tán sỏi thận qua da trong sỏi thận san hô. Y học thưc hành. Số 769 +
770: tr. 168–177.
6. Nguyễn Tuấn Vinh, Vũ Văn Ty, Vĩnh Tuấn, Nguyễn Phúc Cẩm
Hoàng, Nguyễn Hoàng Đức (2000). Lấy sạn thận qua nội soi qua
da. Hội nghị Ngoại khoa quốc gia Việt Nam lần thứ 11: tr. 140.
7. Sausine C, Lechevallier E, Traxer O (2008). Calculs corraliformes
ou calculs complexes: Traitement chirurgical. Prog Urol; vol
18(12): 966 – 971.
8. Sausine C, Lechevallier E, Traxer O (2008). La nephrolithotomie
percutanée: Technique, résultats, complications actuelles. Prog
Urol ; vol18(12): 886 – 980.
9. Sausine C, Lechevallier E, Traxer O (2008). NLPC tubeless. Prog
Urol; vol18(12): 901 – 907.
10. Streem SBGM, Risius B, Zelch MG, et al (1987). Endourologie
sandwich therapy for extensive staghorn calculi. J Endourol; vol1:
253.
11. Trương Văn Cẩn, Phạm Ngọc Hùng, Nguyễn Khoa Hùng, Hoàng
Văn Tùng, Lê Đình Khánh. (2010). Đánh giá kết quả điều trị sỏi
thận bằng phẫu thuật nội soi lấy sỏi qua da tại bệnh viện Trung
Ương Huế. Y học Việt Nam. Tập 375: tr. 441 – 446.
12. Vũ Nguyễn Khải Ca, Hoàng Long, Đỗ Trường Thành, Nguyễn
Quang, Nguyễn Hoài Bắc, Trần Quốc Hòa, Nguyễn Trọng Khìn,
Vũ Hương Giang, Lê Nguyên Vũ, Đỗ Ngọc Sơn, Nguyễn Đức Minh,
Vũ Hà, Nguyễn Anh Tuấn,Ma Ngọc Ba, Tô Minh Hùng.(2010).
Đánh giá kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp tán sỏi qua da
tại bệnh viện Việt Đức từ năm 200