Mục tiêu: Chấn thương cột sống – tuỷ sống thường để lại di chứng liệt bại, tỷ lệ tàn phế và tử vong cao
trong các loại chấn thương đặc biệt là tổn thương tuỷ cổ. Do vậy cần phẫu thuật sớm để cứu sống người bệnh.
Việc chẩn đoán và điều trị còn gặp nhiều khó khăn nhất là tại bệnh viện tuyến Tỉnh. Chúng tôi thống kê lại các
trường hợp phẫu thuật cố định cột sống tại BV đa khoa Hợp Lực để có cái nhìn tổng quan về nhóm bệnh lý này ở
địa phương.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, trong thời gian từ tháng 5/2011 đến 5/2012 tại bệnh viên Đa Khoa
Hợp Lực, trên các BN được tiến hành phẫu thuật cố định cột sống lưng – thắt lưng bằng nẹp vít qua cuống điều
trị chấn thương cột sống mất vững và bệnh nhân xẹp, trượt cột sống bẩm sinh.
Kết quả: Trong 47 BN trong mẫu nghiên cứu: gặp phần lớn là tổn thương cột sống ở đoạn D12–L1 và L5–
S1 với tỷ lệ 23,41% và 51,06%. Lứa tuổi trung niên hay gặp chấn thương là lực lượng lao động chủ yếu nam và
nữ xấp xỉ nhau (nam/nữ = 1,23 lần). Nguyên nhân chấn thương cột sống là do tai nạn giao thông và tai nạn lao
động chiếm tỷ lệ lớn. Nguyên nhân bệnh lý ít gặp hơn. Phương pháp phẫu thuật chủ yếu là nẹp vít qua cuống
đơn thuần (42,55%) và phần lớn cố định đoạn cột sống qua 2 đến 3 đốt (89.36%). Kết quả điều trị tốt: Frankel E
95,74%, chỉ có 2 trường hợp kém, thiếu hụt vận động Frankel D 4,26%.
Kết luận: Phẫu thuật cố định cột sống ngực và thắt lưng tại BV đa khoa Hợp Lực bước đầu cho kết quả tốt.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật cố định cột sống do chấn thương và bệnh lý bằng nẹp vít qua cuống tại Bệnh viện Đa khoa Hợp Lực Thanh Hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 346
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CỐ ĐỊNH CỘT SỐNG DO CHẤN THƯƠNG
VÀ BỆNH LÝ BẰNG NẸP VÍT QUA CUỐNG
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HỢP LỰC THANH HOÁ
Nguyễn Thanh Vân*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Chấn thương cột sống – tuỷ sống thường để lại di chứng liệt bại, tỷ lệ tàn phế và tử vong cao
trong các loại chấn thương đặc biệt là tổn thương tuỷ cổ. Do vậy cần phẫu thuật sớm để cứu sống người bệnh.
Việc chẩn đoán và điều trị còn gặp nhiều khó khăn nhất là tại bệnh viện tuyến Tỉnh. Chúng tôi thống kê lại các
trường hợp phẫu thuật cố định cột sống tại BV đa khoa Hợp Lực để có cái nhìn tổng quan về nhóm bệnh lý này ở
địa phương.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, trong thời gian từ tháng 5/2011 đến 5/2012 tại bệnh viên Đa Khoa
Hợp Lực, trên các BN được tiến hành phẫu thuật cố định cột sống lưng – thắt lưng bằng nẹp vít qua cuống điều
trị chấn thương cột sống mất vững và bệnh nhân xẹp, trượt cột sống bẩm sinh.
Kết quả: Trong 47 BN trong mẫu nghiên cứu: gặp phần lớn là tổn thương cột sống ở đoạn D12–L1 và L5–
S1 với tỷ lệ 23,41% và 51,06%. Lứa tuổi trung niên hay gặp chấn thương là lực lượng lao động chủ yếu nam và
nữ xấp xỉ nhau (nam/nữ = 1,23 lần). Nguyên nhân chấn thương cột sống là do tai nạn giao thông và tai nạn lao
động chiếm tỷ lệ lớn. Nguyên nhân bệnh lý ít gặp hơn. Phương pháp phẫu thuật chủ yếu là nẹp vít qua cuống
đơn thuần (42,55%) và phần lớn cố định đoạn cột sống qua 2 đến 3 đốt (89.36%). Kết quả điều trị tốt: Frankel E
95,74%, chỉ có 2 trường hợp kém, thiếu hụt vận động Frankel D 4,26%.
Kết luận: Phẫu thuật cố định cột sống ngực và thắt lưng tại BV đa khoa Hợp Lực bước đầu cho kết quả tốt.
Từ khóa: cố định cột sống, bắt vis qua cuống cung
ABSTRACT
RESULTS OF THE SPINAL, FIXATION SURGERIES FOR INJURIES AND DAMAGES BY
PEDICLE SCREW PLACEMENT THROUGH VERTEBRAL COLUMN AT THE HOP LUC
GENERAL HOSPITAL
Nguyen Thanh Van* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 346 - 350
Objective: Of all injuries, spinal column and spinal cord injuries, especially cervical spine trauma in the
neck area, often cause paralysis with a high percentage of disabilities and fatalities. The earlier operation takes
place, the less severe the consequences are. The diagnosis and treatment still encounter many difficulties,
especially at the provincial hospitals.
Methods: A prospective study from 5/2011 to 5/2012, in Hop Luc general hospital, for patients with
traumatic unstable column and congenital flat column, that has been treated with pedicle screw placement
through vertebral column operations to fix the back column and waist level, who has
Results: There are 47 patients. Most of the injuries were in the D12-L1 and L5-S1 levels with a ratio of
23.41% and 51.06%. Injuries at the middle-aged group who are often the bread runner in their families: the ratio
between male and female patients are similar (male/ female: 1.23 times). Common cases of vertebral column
* Khoa Ngoại-Sọ não-Cột sống-Lồng ngực BV Đa Khoa Hợp Lực_Thanh Hóa
Tác giả liên lạc: BSCKII Nguyễn Thanh Vân Email:hoplucth@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 347
trauma are traffic and labor accidents accounting for most cases. Medical cases are less common. Major operation
is common pedicle screw placement through vertebral column (42.55%) and mostly the fixation through 2-3
vertebras (89.36%). Good operation results: Frankel E 95.74%, only two case was weak and lack of exercise
frankel D 4.26%.
Conclusion: Pedical screw fixation in the Hop Luc General Hospital has proved to be effective with many
good results.
Key word: pedicle crew fixation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương cột sống- tuỷ sống thường để
lại di chứng liệt, bại, tỷ lệ tàn phế và tử vong cao
(đặc biệt là tổn thương tuỷ cổ) trong các loại
chấn thương. Do vậy cần phẫu thuật sớm, đúng
nguyên tắc mới hi vọng giảm bớt những di
chứng, biến chứng, giảm chi phí và thời gian
điều trị cho người bệnh(2,6).
Việc chẩn đoán và điều trị còn gặp nhiều
khó khăn, nhất là các bệnh viện tuyến tỉnh, phẫu
thuật sớm những trường hợp tổn thương cột
sống mất vững, trượt cột sống, xẹp lún cột sống
do chấn thương cũng như bệnh lý, mục đích trả
lại chức năng cột sống, phục hồi giải phẫu, trả
lại cho người bệnh cuộc sống lao đông sinh hoạt
bình thường.
Trong thời gian từ tháng 5/2011 đến tháng
5/2012 bệnh viện Đa Khoa Hợp Lực đã tiến hành
phẫu thuật cố định cột sống bằng nẹp vít qua
cuống cho 47 bệnh nhân và chấn thương cột
sống – tuỷ sống và bệnh nhân xẹp, trượt cột
sống bẩm sinh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 47 bệnh nhân được mổ cố định cột
sống tại bệnh viện Đa Khoa Hợp Lực Thanh
Hoá từ 5/2011 đến tháng 5/2012.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, trực tiếp mổ và theo dõi tại khoa
phẫu thuật sọ não – chấn thương và lồng ngực.
Đánh giá kết quả sau mổ dựa vào bảng phân
loại của Frankel(4).
Bảng 1: Phân loại tổn thương thần kinh của Frankel
Loại Đặc Điểm
A Liệt hoàn toàn, không có bất kỳ cảm giác hay vận động nào dưới mức tổn thương.
B Liệt không hoàn toàn: Còn cảm giác – mất vận động
C Liệt không hoàn toàn: Còn cảm giác + vận động đến 2/5
D Liệt không hoàn toàn: Còn cảm giác + vận động còn 3/5, 4/5
E Bình thường: Cảm giác và vận động trở lại bình thường
Kết quả nghiên cứu và bàn luận
Bảng 2: Tuổi và giới
Giới Tính Tuổi
Nam Nữ
Cộng Tỷ lệ %
10 - 20 1 1 2,13
21 - 30 1 1 2,13
31 - 40 8 3 11 23,40
41 - 50 9 5 14 29,79
51 - 60 5 7 12 25,53
61 - 70 3 5 8 17,02
Tổng 26 20 47 100,00
Lứa tuổi hay gặp từ 31 đến 60 (78,72%), 41
đến 50 (29,79%) nam nhiều hơn nữ không đáng
kể (26/21 xấp xỉ 1,23 lần). Đây là lực lượng lao
động chính trong xã hội.
Bảng 3: Vị trí tổn thương
Số bệnh nhân Đốt sống
tổn
thương Liệt tuỷ
Không liệt
tuỷ
Cộng Tỷ lệ % Ghi Chú
D11 1 1 2,13
D12 5 5 10,64
L1 6 6 12,77
L2 1 1 2,13
L3 3 3 6,38
L4 1 1 2,13
17 trường
hợP
(36,17%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 348
Số bệnh nhân
C4-C5 1 1 2 4,26
D12-L1 2 2 4,26
L1-L2 1 1 2,13
L2-L3 1 1 2,13
L4-L5 13 13 27,66
L5-S1 11 11 23,40
24 TH
(51,06%)
Cộng 1 46 47 100,00
Tổn thương 1 đốt có 17 trường hợp chiếm
36,17%.
Chấn thương cột sống thường gây tổn
thương ở đốt D12 và L1 (đốt bản lề), có 11/17
trường hợp chiếm 64,70%.
Tổn thương 2 đốt liên tiếp là 30 trường hợp
chiếm 63,83%.
Trượt cột sống bẩm sinh do gãy eo hay mắc
phải do chấn thương thường xảy ra ở liền đốt
sống L4 – L5 (27,66%) và L5-S1 (23,40%). Tổn
thương ở L4-L5 và L5-S1 đã chiếm hơn một nửa
51,06%.
Bảng 4: Nguyên nhân
Nguyên Nhân Số lượng bệnh nhân Tỷ lệ %
Giao thông 8 17,02
Lao động 4 8,51 Tai nạn
Sinh hoạt 5 10,64
Xẹp lún do di chứng chấn
thương 2 4,26
Trượt cột sống bẩm sinh 3 6,38
Trượt cột sống do di chứng
chấn thương 8 17,02
Bệnh lý
Thoát vị đĩa đệm lỏng lẻo cột
sống 17 36,17
Tổng 47 100,00
Nguyên nhân chủ yếu gây tổn thương cột
sống là tai nạn giao thông (17,02%) và tai nạn
sinh hoạt (10,64%), hai nguyên nhân này
chiếm tỷ lệ (27,66%). Nguyên nhân bệnh lý
thường gặp là tổn thương cột sống di chứng
chấn thương (17,02%) hoặc sau mổ thoát vị
đĩa đệm mở cung sau gây lỏng lẻo cột sống
phải cố định (36,17%). Trong nhóm bệnh nhân
nghiên cứu trượt cột sống do di chứng chấn
thương và lỏng lẻo cột sống phải cố định là 25
trường hợp chiếm 53,19%.
Bảng 5: Triệu chứng lâm sàng
TT Triệu chứng Số bệnh nhân Tỷ lệ %
1 Đau hông 41 87,23
2 Đau tăng khi ho, hắt hơi 44 95,62
3 Teo cơ 9 19,15
4 Bại hai chân 7 14,89
5 Liệt nặng bàn chân 4 8,51
6 Hội chứng đuôi ngựa 8 17,02
7 yếu sức cơ ngón cái 17 36,17
8 Gù và lệch vẹo cột sống 34 72,34
9
dấu hiệu Lasegue (+<60
độ) 22 46,8
10 dấu hiệu bấm chuông (+) 18 38,3
11 dấu hiệu Valleix (+) 30 63,83
12 Bí tiểu 15 31,91
13 Schoberg (+<13/10) 21 44,68
14 Triệu chứng đi cách hồi 5 10,64
15
Rối loạn thần kinh thực vật
hai chân 10 21,28
16 Mất phản xạ gối, gót 22 46,8
17
Cảm giác mặt ngoài cẳng
chân giảm 26 55,32
Đa số các chấn thương đều có dấu hiệu đau
tại chỗ (87,23%) đau tăng khi ho và hắt hơi do
áp lực dịch não tuỷ tăng (95,62%). Gù chấn
thương và lệch vẹo cột sống chiếm 72,34%.
Những trường hợp bệnh lý các dấu hiệu căng
dây, căng rễ đều dương tính. Rối loạn cảm giác
và rối loạn cơ vòng 53,19%, dấu hiệu Schoberg
và Lasègue (+) (91,48%).
Dấu hiệu cận lâm sàng
Chúng tôi sử dụng X quang kỹ thuật số
(DR), X quang tăng sáng truyền hình để chụp
cho 100% bệnh nhân chấn thương cột sống. Trên
hình ảnh X quang quy ước đã cho phép phát
hiện tổn thương xương như: Xẹp, lún, vỡ, trượt,
mất độ ưỡn cột sống, tam chứng Barr, gai
xương, vỡ xương, đứt eo, thoát vị nội xốp
(Schmorl).
Việc chẩn đoán có tổn thương tuỷ hay
không chủ yếu dựa vào cộng hưởng từ (MRI),
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 349
phương pháp này cho phép đánh giá được các
tổn thương của tuỷ sống (đụng dập, tụ máu, tụ
máu dưới màng cứng hay ngoài màng cứng, các
tổn thương dây chằng, phần mềm quanh cột
sống).
Bảng 6a: Phương pháp phẫu thuật.
TT Phương pháp phẫu thuật Số BN Tỷ lệ %
1 Nẹp vít qua cuống đơn thuần 20 42,55
2
Nẹp vít + cắt cung sau
(Laminectomie) 3 6,38
3
Nẹp vít + cắt cung sau + lấy khối
thoát vị đĩa đệm 22 46,81
4 Nẹp vít + đóng cứng khớp 2 4,26
Cộng 47 100,00
Bảng 6b: Đoạn cột sống được cố định
TT Phương pháp phẫu thuật Số BN Tỷ lệ %
Nẹp vít cố định 2 đốt (C4-
C5, L2-L3, L4-L5, L5-S1) 20 42,55
2
Nẹp vít cố định 3 đốt (D10-
D11-D12, D11-D12-L1, D12-
L1-L2, L2-L3-L4, L3-L4-L5,
L4-L5-S1) 22 46,81
3
Nẹp vít cố định 4 đốt (D11-
D12-L1-L2, L1-L2-L3-L4) 4 8,51
4
Nẹp vít cố định 5 đốt (D11-
D12-L1-L2-L3) 1 2,13
Cộng 47 100,00
Những trường hợp chấn thương cột sống
không liệt tuỷ chủ yếu là nẹp vít qua cuống đơn
thuần (42,55%). Trường hợp bệnh lý sau mổ
thoát vị đĩa đệm, lỏng lẻo cột sống, trượt cột
sống bẩm sinh hay mắc phải tỷ lệ nẹp vít chiếm
46,81%. 42,55% bệnh nhân được cố định 2 đốt
sống 46,81% cố định 3 đốt. Số bệnh nhân cố
định 2 đến 3 đốt chiếm phần lớn 89,63%.
Kết quả điều trị
Dựa vào bảng phân loại của Frankel để đánh
giá tình trạng thần kinh của bệnh nhân lúc sơ
cứu, khi nhập viện, sau quá trình điều trị và kết
quả theo dõi cuối cùng:
Bảng 7: Kết quả sau mổ
Mức độ khỏi Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Frankel A - -
Frankel B - -
Frankel C - -
Frankel D 2 4,26
Frankel E 45 95,74
Cộng 47 100,00
Chỉ có 1 trường hợp chấn thương cột sống
cổ trượt C4/C5 bại yếu tứ chi và một trường hợp
xẹp lún L1 liệt 2 chi dưới không hoàn toàn. Sau
mổ cảm giác hồi phục nhưng vận động giảm
3/5, một trường hợp vết mổ chậm liền phải khâu
da thì 2.
Kết quả tốt – Frankel E là 95,74%.
BÀN LUẬN
Về tuổi – lứa tuổi hay tổn thương cột sống –
tuỷ sống, phần lớn là tuổi trung niên ít nhất 16
tuổi, cao nhất 66 tuổi nam nhiều hơn nữ không
đáng kể (Bảng 2).
Theo thống kê chấn thương cột sống – tuỷ
sống chiếm 4% đến 6% trong tổng số chấn
thương (Võ Xuân Sơn 2010). Ở Mỹ những năm
80 của thế kỷ XX mỗi năm có 11.000 người bị
chấn thương cột sông – tuỷ sống. Đến năm 90
của thế kỷ XX số bệnh nhân chấn thương đã
tăng lên 4 đến 5 lần, mỗi năm thêm 40.000 đến
60.00 bệnh nhân, trong đó 20% đến 30% chấn
thương cột sống có tổn thương thần kinh(5).
Ở Việt Nam: Theo Vũ Hùng Liên (Quân Y
Viện 103) từ tháng 5/1995 đến 11/2003 có 663
bệnh nhân chấn thương cột sống (268 bệnh nhân
bị tổn thương thần kinh chiếm 40,4%). Chấn
thương cột sống – tuỷ sống ở nam nhiều hơn nữ
(Võ Văn Thành 85,95%, Vũ Hùng Liên,
74,66%...). hầu hết ở lứa tuổi 15 đến 30(3). Trong
nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi lứa
tuổi hay gặp nhất từ 30 đến 60 (78,72%) trong đó
41 đến 50 chiếm 29,79%, nữ và nam xấp xỉ nhau,
điều đó chứng tỏ ở nông thôn lao động nữ
chiếm một phần quan trọng trong lực lượng lao
động.
Bảng 3 cho thấy chấn thương cột sống
thường gặp ở đốt bản lề giữa nơi cột sống đang
chuyển đường cong D11-L1 (23,41%) L5-S1
(51,06%) nguyên nhân chấn thương cột sống là
do tai nạn giao thông và tai nạn lao động
(27,66%). Nguyên nhân trượt cột sống thường
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 350
do thoái hoá, lỏng lẻo khớp chiếm (36,17%). Lý
do chấn thương chỉ chiếm 17,02%.
Bảng 6a và 6b cho biết phương pháp phẫu
thuật chủ yếu là dùng nẹp vít qua cuống đơn
thuần chiếm 42,55% và phần lớn cố định 2
hoặc 3 đốt sống (89,36%).
Kết quả điều trị tốt. Bệnh nhân ổn định hoàn
toàn, phục hồi cảm giác và vận động trở lại cuộc
sống bình thường sau một thời gian điều trị và
phục hồi chức năng Frankel E 95,74%, chỉ có 2
trường hợp kết quả kém, liệt không hoàn toàn
(Frankel D 4,26%), ngoài một trường hợp chậm
liền vết mổ chúng tôi chưa gặp biến chứng nào
trong quá trình phẫu thuật.
Có thể số lượng phẫu thuật của chúng tôi
chưa nhiều nên đánh giá chưa được khách quan,
mặt khác những bệnh nhân nặng và nguy kịch
phần lớn chuyển tuyến Trung ương theo
nguyện vọng của gia đình.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cố định cột sống bằng nẹp vít
qua cuống là một phẫu thuật đòi hỏi trang thiết
bị hiện đại, kỹ thuật cao, quá trình phẫu thuật
phải tuyệt đối an toàn, không được để xảy ra sai
sót.
Qua 47 ca mổ chúng tôi nhận thấy:
Gặp phần lớn là tổn thương cột sống ở đoạn
D12-L1 và L5-S1 với tỷ lệ 23,41% và 51,06%.
Lứa tuổi trung niên là lực lượng lao động
chủ yếu, Nam và Nữ xấp xỉ nhau (1,23 lần).
Nguyên nhân chấn thương cột sống do tai
nạn giao thông và tai nạn lao động chiếm tỷ lệ
lớn, nguyên nhân bệnh lý ít gặp hơn. Phương
pháp chủ yếu là nẹp vít qua cuống đơn thuần
(42,55%) và phần lớn cố định đoạn cột sống qua
2-3 đốt (89,36%).
Kết quả điều trị tốt, Frankel E 95,74%, chỉ
có 2 trường hợp kém thiếu hụt vận động
Frankel D 4,26%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Quang Tuyển (1998). Phương pháp chẩn đoán bằng hình ảnh
cộng hưởng từ. Các phương pháp chẩn đoán bổ trợ về thần kinh,
Nhà xuất bản Y Học: 253-259.
2. Hà Kim Trung (2004). Bài giảng chấn thương cột sống. Tài liệu
hướng dẫn cho các phẫu thuật viên thần kinh địa phương: 30-59.
3. Hoàng Tiến Bảo (1975). Cố định gãy cột sống ngực-bụng, kèm
liệt. Tập san ngoại khoa, 7(5):154-158.
4. Roy-Camille R. Saillant G, Mazel C (1986). Plating of thoracic,
thoraco-lumbar and lumbar injuries with pedicle screw plates.
Ortho clinical north AM, 17:145-158
5. Vũ Hùng Liên (2006). Chấn thương cột sống-tuỷ sống và những
vấn đề cơ bản. Nhà sản xuất Y Học: 132.
6. Vũ Tam Tỉnh (1996). Điều trị gãy cột sống lưng-thắt lưng với
dụng cụ kết hợp xương gắn bám vào cuống cung và bản sống.
Luận án tiến sỹ y khoa, Đại Học Y Dược TP HCM.