Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 188
KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ LÀM THẤT BẠI KẾT QUẢ CỦA PHẪU THUẬT 
NỘI SOI CẮT TUYẾN ỨC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯỢC CƠ 
TẠI 3 TRUNG TÂM: BV. CHỢ RẪY, BV. ĐẠI HỌC Y DƯỢC 
VÀ BV. TRƯNG VƯƠNG 
Nguyễn Công Minh* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Bệnh nhược cơ là bệnh tự miễn gây rối loạn tại tấm động thần kinh-cơ. Phương thức điều trị lý 
tưởng bao gồm phẫu thuật, ức chế men, ức chế miễn dịch, lọc huyết tương hoặc Immunoglobulin, tùy diễn biến 
của lâm sàng. Mục tiêu của công trình này là phân tích những yếu tố lâm sàng trước mổ liên quan đến thất bại 
sau mổ cắt rộng tuyến ức, qua kết quả trung hạn trong điều trị bệnh nhược cơ, tại ba trung tâm (BV Chợ Rẫy, 
BV ĐH Y Dược và BV cấp cứu Trưng Vương). 
Phương pháp nghiên cứu: Trong 3 năm (1/2007-1/2010), chúng tôi thu nhận được 83 trường hợp điều trị 
PTNS bệnh nhược cơ có u tuyến ức. Tuổi trung bình là 28,5, nữ nhiều gấp đôi Nam (64% so với 36%). 30% 
BNC mức độ nhẹ (giai đoạn I và IIa) và 70% độ nặng (giai đoạn IIb trở lên). Tăng sản tuyến hung chiếm 74,7% 
và u chiếm 25,3%). Thời gian bệnh trung bình trước mổ là 23,50 6,75 tháng (4 -150 tháng). Thời gian theo dõi 
trung bình là 18 tháng (12-36 tháng). 
Kết quả: Không có tử vong sau mổ và biến chứng nhẹ chiếm 13, 2%. Sự không đáp ứng sau mổ giữa nam 
và nữ không khác biệt (16,6% và 13,3%). Đáp ứng sau mổ của nhóm BN có phân độ MGFA dưới độ III đạt 
96,2%, trong khi từ độ III trở lên thì tỷ lệ đáp ứng sau mổ chỉ có 50%. Liệt cơ sọ hầu là một tiên lượng không tốt. 
Chín mươi tám phần trăn (98%) đạt hiệu quả sau mổ đều thuộc nhóm BN không u và nhỏ hơn 40 tuổi. Trong 
khi đó, 9 BN không đáp ứng sau mổ đều là BNC có u và > 40 tuổi. Thời gian chờ mổ dưới 12 tháng đạt hiệu quả 
hoàn toàn sau mổ, trong khi nhóm BN có thời gian trên 12 tháng chỉ đạt hiệu quả sau mổ là 37,5%. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt tuyến ức trong điều trị BNC đã mang lại kết quả trung hạn phấn khởi với 
hiệu quả đạt được trên 85,5% các trường hợp. Một tỷ lệ nhỏ bệnh không thuyên giảm (15,5%). Về giới tính, hiệu 
quả sau mổ không khác nhau. Với bệnh nhược cơ trên 40 tuổi kết hợp với u tuyến ức, triệu chứng nhược cơ toàn 
thân trước mổ kéo dài (> 12 tháng), sự hiện hữu của nhược cơ sọ hầu thì hiệu quả sau mổ kém. Vấn đề còn tùy 
thuộc vào sự hiện hữu của kháng thể kháng men tyrosine đặc hiệu cơ, nếu có, sẽ ít đáp ứng với phẫu thuật. 
Từ khóa: Bệnh nhược cơ- Các yếu tố tiên lượng không đáp ứng sau cắt tuyến ức. PT cắt tuyến hung trong 
điều trị bệnh nhược cơ - Các yếu tố tiên lượng ngoại khoa thất bại. 
ABSTRACT 
INVESTIGATION OF THE RELATED FACTORS ON THE FAILURE OF THE VIDEO ASSISSITED 
THYMECTOMY IN THE TREATMENT OF MYASTHENIA GRAVIS AT CHO RAY, TRUNG VUONG 
AND MEDICAL UNIVESITY HOSPITAL. 
Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 188 - 195 
Objective: Myasthenia gravis is disorder of the neuromuscular junction. The treatment options include 
thymectomy, cholinesterase inhibitors, immunosuppessive, plasma exchange or intravenous immunoglobulin, 
according to the clinical presentation. The purpose of the study is the analysis the clinical presentation related to 
* Bệnh viện Trưng Vương 
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Công Minh ĐT: 0903732399, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 189
the failure of extended thymectomy on the result of medium time follow for treatment myasthenia gravis at three 
centers (Cho Ray, Trung Vuong and Medical univesity hospital). 
Methods: Eighty three video-assisted thymectomy for myasthenia gravis were performed between january 
2007 and january 2010. Mean age: 28,5 years. Female to male ratio was 53 (64%): 30 (36%). Stage I - IIa: 30% 
and 70% from IIb in MGFA classification. Thymic hyperplasia was 74.7% and thymoma in 25.3%. Mean 
duration of disease before surgery was 23.50 6.75 months (4 - 150 months). Mean follow-up was 18 months 
(range 12-36 months). 
Results: No operated mortality and 13.2% minimal postop-complications. The surgical respones rate of the 
male and female was not different (16.6% và 13.3%). The outcome of the patients under grade III of MGFA 
classification was 96,2% and the more than grate III, only 50%. The presence of oropharyngeal involvement MG 
was a predictor of nonresponse. Ninety eight per cent responded patients were nonthymoma and under 40 years 
old. 9 nonresponded MG patients were thymoma associated over 40 yeas old. An response rate of the patients with 
long duration symtoms (more than 12 months)was 37.5%, but effect on the patients under 12 months. 
Conclusion: Video-assisted thymectomy for myasthenia gravis provides the satisfactory mid-term clinical 
results in more than 85.5% of the patients. The small percentage was inchanged (15.5%). The remission and 
clinical improvement after surgery on patient’ s sex was not different. The outcome of the patients over 40 years 
old associated with thymoma MG was not better. The short duration of symtomes and absence of oropharyngeal 
involvement were both predictors of response to thymectomy. On other hand, because the problem was related to 
the existence of the muscle specific receptors tyrosine kinase antibodies (anti-MuSKab), less efficacy postoperative. 
Keywords: Myasthenia gravis - The predictors of the nonresponse rate to thymectomy. Thymectomy for 
myasthenia gravis - The pedictors of the surgical failure. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh nhược cơ là một bệnh tự miễn được 
tìm hiểu và được biết một cách sâu xa nhất trong 
số các bệnh tự miễn.(29) Điều trị thuốc lâu dài 
luôn là một thách thức, bởi vì nó có thể gây hậu 
quả nghịch, làm trầm trọng thêm tình trạng 
bệnh hiện có. Phương thức điều trị lý tưởng 
hiện nay là làm sao lấy hết được các kháng thể 
bất thường mà không gây tổn thương trên hệ 
thống miễn dịch của cơ thể. Từ nguyên tắc đó, 
cắt tuyến ức được xem như là phương pháp 
điều trị sau cùng.(29) Thực tế, trên phương diện 
miễn dịch, nhiều chi tiết cho thấy rằng bệnh 
nhược cơ (BNC) còn phức tạp hơn những gì 
người ta nghĩ trước đây, tình trạng phản ứng 
miễn dịch khác nhau có thể cho các dạng lâm 
sàng (LS) khác nhau và cũng cho kết quả khác 
nhau sau khi cắt bỏ tuyến ức.(23,28) Nghĩa là vẫn 
có những trường hợp kém hoặc chậm đáp ứng 
với phẫu thuật. Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng 
đến hiệu quả sau mổ, trên nền tảng của các tiến 
bộ gần đây của khoa học và Y học phân tử là 
mục đích của công trình nghiên cứu này. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
• Thử nghiệm lâm sàng, không đối chứng. 
• Cỡ mẫu dự trù: 81 bệnh nhân. Công thức 
tính cỡ mẫu: n = {Z2 – x/2P(1-P)}/ d2 
Độ tin cậy 95% (Z2 – x/2)/ d2 = 1,96. d: độ 
chính xác tuyệt đối = 95%. P: tỷ lệ ngưng thuốc 
sau PT 3 năm ước tính trong quần thể = 30%. Kết 
quả: n = 80,6736 # 81 
Đánh giá hiệu quả sau cắt tuyến ức 
•Trên ý nghĩa rộng, 4 mức độ đáp ứng LS 
sau mổ cắt mô tuyến ức triệt để: 
1-Khỏi hoàn toàn (thuyên giảm hoàn toàn): 
không còn TC mà không cần phải dùng thuốc. 
2-Khỏi nhưng phải dùng thuốc giảm liều. 3-LS 
cải thiện nhưng phải dùng thuốc. 4-Lâm sàng 
không cải thiện. tình trạng xấu đi. 
• Thực tế, sự thuyên giảm trên LS là thước 
đo quan trọng, đánh giá kết quả PT: 2 tiêu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 190
chuẩn chính của MGFA: 1. Khỏi hoàn toàn mà 
không cần phải dùng thuốc (CSR: Complete 
Stable Remission): BN không còn triệu chứng 
lâm sàng của BNC, ít nhất 1 năm mà không 
phải điều trị thuốc gì cả trong thời gian này. 
2. Bệnh thuyên giảm, phải dùng thuốc nhưng 
có giảm liều (PR: Pharmacologic Remission): 
tiêu chuẩn giống như CSR nhưng BN còn 
phải sử dụng vài loại thuốc điều trị nhược cơ, 
đặc biệt, những BN có dùng thuốc ức chế 
cholinesterase phải dùng ở liều thấp hơn 
trước mổ, bởi vì điều này chứng tỏ bệnh chưa 
khỏi (còn yếu cơ)(32). 
Tư liệu nghiên cứu 
Từ tháng 1/2007 đến tháng 1/20010, tại 3 
trung tâm, chúng tôi có 83 bệnh nhân nhược cơ 
có chỉ định mổ. 
69 BN được theo dõi từ 12 tháng đến 36 
tháng, trung bình là 18 tháng, kết quả như sau: 
- Khỏi hoàn toàn mà không cần phải dùng 
thuốc: 6 BN, chiếm tỷ lệ 8,69%. 
- Bệnh thuyên giảm nhưng phải dùng thuốc: 
53 BN, chiếm tỷ lệ 76,81%. 
- Không thuyên giảm: 10 BN, chiếm tỷ lệ 
14,49% (BN phải dùng thuốc như trước mổ). 
Đặc điểm lâm sàng lúc nhập viện 
Phân tích trên 10 BN nhược cơ chưa thuyên 
giảm sau mổ: 
-Tất cả đều có nhược cơ sọ hầu (khó nói khó 
nuốt thường trực) lúc nhập viện. 
-Tất cả đều có thời gian chờ mổ trên 2 năm. 
-90% là có u tuyến ức và trên 40 tuổi. 
-9/10 BN đều có kháng thể kháng Ach (-). 
Không tìm được kháng thể kháng thụ thể 
tyrosine kinase đặc hiệu cơ (không có xét 
nghiệm tại VN). 
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả phẫu 
thuật 
Ảnh hưởng của mức độ nặng-nhẹ theo MGFA 
Bảng 1: Mức độ nặng nhẹ trước mổ và hiệu quả sau 
mổ 
Kết quả
MGFA 
trước mổ 
Hiệu quả Không hiệu quả Tổng số 
Độ nhẹ 23 (33,3%) 0 (0%) 23 (33,3%) 
Độ nặng 36 (52,2%) 10 (11,5%) 46 (66,7%) 
Tổng số 59(85,5%) 10 (14,5%) 69 (100%) 
• Nhóm BN có phân độ MGFA mức độ 
nhẹ đều đạt hiệu quả sau mổ (23/23 BN). 
Nhóm BN mức độ nặng, hiệu quả sau mổ chỉ 
chiếm 78,3% (36/46 BN). 
• Trên 10 BN không hiệu quả sau thời 
gian theo dõi:10 BN đều ở mức IIIb trở lên. 
Ảnh hưởng của tuổi trên hiệu quả phẫu thuật 
Bảng 2: Tuổi và hiệu quả sau phẫu thuật 
Kết quả
Tuổi 
Hiệu quả 
Không hiệu 
quả 
Tổng số 
≤ 40 46 (66,7%) 1 (1,5%) 47 (68,2%) 
> 40 13 (18,8%) 9 (13%) 22 (31,8%) 
Tổng số 59(85,5%) 10 (14,5%) 69 (100%) 
98% (46/47 BN) đạt hiệu quả sau mổ đều 
thuộc nhóm BN không u và nhỏ hơn 40 tuổi. 
9/10 BN không đáp ứng sau mổ đều là BNC 
có u và > 40 tuổi. 
Điều này cho thấy BNC có u và trên 40 tuổi 
thì hiệu quả sau mổ kém hơn nhóm không u và 
dưới 40 tuổi. 
Bản chất tuyến ức và hiệu quả sau mổ 
Bảng 3: Bản chất mô học và hiệu quả sau mổ 
Kết quả
GPB 
Hiệu quả Không hiệu quả Tổng số 
TĂNG SẢN 49 (71%) 3 (4,4%) 52 (75,4%) 
U và K 10 (14,5%) 7 (11,1%) 17 (24,6%) 
Tổng số 59 (85,5%) 10 (14,5%) 69 (100%) 
Trên nhóm BN tăng sản: tỷ lệ đạt hiệu quả 
sau mổ là 94,2% (49/52 BN); 
Trên nhóm BN có u, tỷ lệ đạt hiệu quả sau 
mổ là 58,8% (10/17 BN). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 191
Xét rêng trên 10 BN không đáp ứng sau mổ: 
70%(7/10 BN) là có u. 
30% (3/10 BN) là tăng sản (không có u). 
Thời gian chờ mổ ảnh hưởng đến hiệu quả 
phẫu thuật 
Bảng 4: Thời gian từ lúc khởi bệnh đến khi mổ và 
hiệu quả phẫu thuật 
Kết quả
Thời gian 
chờ mổ 
Hiệu quả 
Không hiệu 
quả 
Tổng số 
≤ 12 tháng 53 (76,8%) 0 (0%) 53 (76,8%) 
> 12 tháng 6 (8,7%) 10 (14,5%) 16 (23,2%) 
Tổng số 59(85,5%) 10 (14,5%) 69 (100%) 
Nhóm BN có thời gian từ lúc khởi bệnh đến 
khi được mổ dưới 12 tháng đều đạt hiệu quả sau 
mổ. Nhóm BN có TC nhược cơ toàn thân kéo 
trên 12 tháng thì hiệu quả phẫu thuật, sau 18 
tháng theo dõi chỉ có 37,5% (6/16 BN). 
Tất cả 10 BN không đáp ứng với PT đều có 
thời gian chờ mổ kéo dài trên 24 tháng. 
Giới tính và hiệu quả phẫu thuật 
Bảng 5: Liên hệ giữa giới tính và hiệu quả sau mổ 
 Kết quả
Giới 
Hiệu quả 
Không hiệu 
quả 
Tổng số 
Nữ 39 (56,5%) 6 (8,7%) 45 (65,2%) 
Nam 20 (29%) 4 (5,8%) 24 (34,8%) 
Tổng số 59 (85,5%) 10 (14,5%) 69 (100%) 
Nhóm BN nữ không hiệu quả sau mổ là 
13,3% (6/45BN). 
Nhóm BN nam không hiệu quả sau mổ là 
16,6% (4/24BN). (P> 0,05) 
Khảo sát trên 10 BN không hiệu quả thì: nữ 
chiếm 60% (6/10 BN) và nam chiếm 40% (4/10 
BN). Sự khác biệt không có ý nghĩa. P>0,05 
BÀN LUẬN 
Ý nghĩa của phẫu thuật cắt triệt để tuyến 
ức 
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng 
cắt triệt để tuyến ức sẽ(1): Loại bỏ được nguồn 
cung cấp kháng nguyên kích hoạt liên tục gây ra 
nhược cơ(2). Lấy di kho dự trử các tế bào B (tiết ra 
kháng thể kháng thụ thể acetylcholine)(3). Điều 
chỉnh các rối loạn miễn dịch trong BNC.(21,30) 
Trên một nghiên cứu gần nhất, theo dõi 
trên 12 năm, cho thấy tỷ lệ khỏi bệnh (CSR) sau 
mổ cắt tuyến ức trên các trường hợp không u là: 
40% với BN có huyết thanh (-); 20% với BN có 
kháng thể kháng thụ thể đặc hiệu cơ (MuSK); và 
lên đến 51% với BN có huyết thanh (+)(20,24,25). 
Quan điểm rõ rệt ngày nay, bất chấp đường 
mổ nào, mục tiêu lý tưởng nhất hiện nay là lấy 
triệt để tuyến hung và phần mỡ bên ngoài bao 
tuyến. Điều đó bao gồm phải bóc tách và lấy đi 
các mô mỡ trung thất, trên màng bao tim. 
-Có một điều hiển nhiên rằng cắt càng 
triệt để tuyến hung và phần mỡ bao quanh thì 
hiệu quả điều trị BNC càng tốt(16). Cắt không 
hoàn toàn tổ chức tuyến hung (bỏ sót mô 
tuyến ức sau PT) thì bệnh nhược cơ không cải 
thiện hoặc nặng thêm(16). 
-Khảo sát đại thể lẫn vi thể cho thấy ngoài 
tuyến ức, tổ chức tuyến ức phát tán rộng đến cả 
phần mỡ vùng nền cổ và trung thất, ước tính từ 
39,5% lên đến 98%(16). 
Chúng tôi có 10 BN, trung bình sau 12 - 36 
tháng theo dõi: không đáp ứng với phẫu thuật. 
Ngoài các yếu tố nêu trên, chúng tôi khảo sát 
các yếu tố lâm sàng trước mổ ảnh hưởng đến kết 
quả sau mổ. 
Thời gian cần thiết để đánh giá kết quả sau 
mổ 
Theo dõi trên một số BN nhược cơ, có người 
cho rằng hiệu quả giảm ngay trong thời kỳ hậu 
phẫu. Có lẽ đó là một cảm giác chủ quan, bởi vì 
đây là một bệnh liên quan đến hệ miễn dịch, do 
đó mới vừa cắt bỏ tuyến ức dù cho triệt để cũng 
không thể có đáp ứng ngay sau mổ. Thực ra, 
ngày nay nhờ điều trị nội và chuẩn bị BN tốt, ổn 
định trước mổ, nên ta có cảm giác BN có đáp 
ứng ngoạn mục với điều trị ngoại, đặc biệt với 
nhược cơ độ I. Trên thực tế, kết quả điều trị 
ngoại khoa thường đến chậm và kết quả đến 
sớm nhất là khoảng 6 tháng. Trên nhiều công 
trình nghiên cứu về hiệu quả cắt triệt để tuyến 
ức gần đây, các tác giả(9,11,14) đều đồng thuận và 
cho rằng BN phải theo dõi ít nhất là 6 tháng sau 
mổ mới có thể đánh giá được sự đáp ứng của 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 192
bệnh nhược cơ với các phương thức điều trị 
ngoại khoa. Kết quả sau mổ cắt triệt để tuyến ức 
trong điều trị BNC thay đổi rõ trong 2 năm đầu 
sau mổ và kết quả có thể đến muộn hơn, thậm 
chí phải đến 10 năm sau(3,5,7). 
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sau mổ 
Mức độ LS ảnh hưởng đến hiệu quả phẫu thuật 
- 10 BN không hiệu quả sau thời gian theo 
dõi: cả 10 BN đều ở mức IIIb trở lên theo phân 
độ LS của MGFA, là tình trạng nhược cơ sọ hầu 
mức độ nặng (khó nói khó nuốt, nói ngọng 
thường trực hoặc yếu cơ toàn thân nặng. 
- Pompeo(23) theo dõi trung hạn trong 119 
tháng (60-156 tháng), trung bình sau 88 tháng 
trên những BN sau mổ cho kết quả thỏa đáng: tỷ 
lệ khỏi bệnh từ 14% đến 60%. Trên LS, những 
BN không có nhược cơ hầu họng hoặc có 
thoáng qua, hiệu quả sau mổ đều tốt. 
Ảnh hưởng của tuổi trên hiệu quả phẫu thuật 
• NC của chúng tôi: 98% (46/47 BN) đạt hiệu 
quả sau mổ đều thuộc nhóm BN không u và 
nhỏ hơn 40 tuổi. 9/10 BN không đáp ứng sau mổ 
đều là BNC có u và > 40 tuổi. 
• Công trình của Masaoka(17) và Cs cho thấy 
tuổi < 35 và thời gian kéo dài dưới 24 tháng của 
các BNC không có u thì tiên lượng tốt hơn. 
Tương tự, theo Huang(8) nhóm BN trẻ < 35 tuổi 
cho hiệu quả CSR (khỏi bệnh hoàn toàn) sau mổ 
tốt hơn. Theo Bril(2) và Cs thì BN cao tuổi có đáp 
ứng sau mổ chậm hơn và biến chứng lại nhiều 
hơn, nam trên 45 tuổi thường có diễn tiến xấu 
sau mổ nhưng nữ thì không ảnh hưởng. 
Trên thực tế, có một điều rõ ràng được sự 
đồng thuận của đa số tác giả là: cắt triệt để 
tuyến ức ở BNC người trẻ thì bệnh sẽ khỏi, sẽ 
thuyên giảm hoặc làm sẽ giảm được liều thuốc 
ức chế miễn dịch sau này sớm hơn(8,31). 
Bản chất tuyến ức và hiệu quả sau mổ 
• Xét rêng trên 10 BN không đáp ứng sau 
mổ trong nghiên cứu của chúng tôi: 70% (7/10 
BN) là có u. 30% (3/10 BN) là tăng sản (không 
có u). 
• BNC (kèm theo u và không u) có quá trình 
bệnh sinh khác nhau, nhưng nếu được cắt triệt 
để tuyến ức thì hiệu quả điều trị BNC sẽ như 
nhau. Do vậy nên phân biệt rõ ràng hiệu quả 
thần kinh học và hiệu quả ung thư học trên 
những BN nhược cơ có u.(14) 
Kháng thể kháng cơ vân được phát hiện 
nhiều (75-80%) trên BN nhược cơ có u tuyến ức. 
Cũng có trường hợp kết quả dương tính trên BN 
nhược cơ không u, đặc biệt ở BN cao tuổi.(19,26) 
Trong số BNC có u, sự hiện diện của KT kháng 
thụ thể titin và thụ thể ryanodine cũng được tìm 
thấy trên những BN nặng, khởi phát muộn(19,26) 
Cũng chính vì là một xét nghiện chỉ điểm của u 
tuyến ức, cho nên ngày nay, KT kháng kháng cơ 
vân được dùng để tầm soát u trên các BN nhược 
cơ khởi phát trước 40 tuổi(19). 
●Hsu và một số tác giả(7,22) cho rằng u tuyến 
ức kết hợp với nhược cơ toàn thân ở mức độ 
nặng thì kết quả sau mổ BNC thường tồi tệ. 
Nghĩa là: với BNC không u, hiệu quả sau mổ sẽ 
tốt hơn các trường hợp có u. 
Theo Durieux,(4) bất chấp mức độ nặng nhẹ 
của nhược cơ, về mặt thần kinh học, BNC có u 
không làm xấu đi sự thuyên giảm bệnh sau mổ. 
● Các công trình sau này(11,18,32) đều kết luận 
hiệu quả giữa u và tăng sản như nhau và rõ nhất 
là những BN được theo dõi sau 12 tháng, bất 
chấp mức độ lâm sàng trước mổ. 
Thời gian chờ mổ ảnh hưởng đến hiệu quả 
phẫu thuật 
Các nghiên cứu gần đây(18,19,20,34) đều cho 
rằng: nếu thời gian xuất hiện triệu chứng nhược 
cơ toàn thân càng ngắn thì hiệu quả sau mổ 
càng cao. Bởi vì biểu hiện LS càng kéo dài sẽ gia 
tăng tổn thương tại tấm động thần kinh-cơ(23). 
Như vậy, nếu được mổ sớm kết quả sẽ tốt 
hơn.(6,12) Cắt u tuyến hung trên các BN chỉ bị 
nhược cơ khu trú ở mắt” sẽ tốt hơn. Có 1 điều 
hết sức quan trọng (theo dõi trong 10 năm) là: 
“cắt u tuyến hung sẽ ngăn chận được diễn tiến 
toàn thân của những BN này”(1,27). Do đó phẫu 
thuật ngay trong giai đoạn sớm sẽ cho kết quả tuyệt 
vời, hơn là cắt khi có dấu nhược cơ nặng toàn thân. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 193
Tuy nhiên các tác giả cũng chưa xác định 
thời gian mắc bệnh bao lâu được gọi là sớm. Có 
tác giả thì thời gian mổ sớm là 12 tháng từ khi 
khởi bệnh, còn theo Gold(6), thời gian từ lúc xuất 
hiện triệu chứng đầu tiên đến khi được mổ dưới 
12 tháng thì kết quả sẽ tốt hơn. Trên thực tế, thời 
gian chờ mổ luôn lệ thuộc vào tình trạng nặng 
nhẹ của bệnh nhược cơ, như vậy nó liên quan 
mật thiết với việc sử dụng thuốc trước mổ. 
•Theo đại đa số các tác giả, với các thể 
nhược cơ nặng, phải điều trị nội khoa kéo dài 
cho đến khi ổn định mới mổ và trong các trường 
hợp đó hậu phẫu thường tồi tệ hơn.(33) Công 
trình của Waitande(34) cũng cho thấy các BN 
nhược cơ mức độ vừa đều cho kết quả tốt sau 
mổ. Cơ may để đạt kết quả tốt là cắt tuyến ức 
triệt để ở giai đoạn sớm của bệnh trước khi có yếu 
cơ toàn thân.(20,22,30) 
Sử dụng thuốc trước mổ 
•Theo Meacci(18), với những BN đã dùng 
thuốc đơn trị (riêng lẽ corticoid hoặc 
pyridostigmine) hoặc dùng liều thấp thì khả 
năng lui bệnh cao hơn và sớm hơn, kết quả sau 
mổ tốt hơn những BN kết hợp nhiều loại thuốc 
trước mổ. 
•Có tác giả cho rằng: dùng Steroids trước mổ 
liều càng cao thì kết quả sau mổ càng xấu, so với 
nhóm không dùng Steroids.(8,10) Đây là vấn đề 
mới mà gần đây, với các nghiên cứu rộng lớn và 
phân tích đa biến như công trình của của 
Lucchi(14) và Sekine(28) đã sử dụng corticoid liều 
cao và dùng cách ngày trước mổ, cho kết quả rất 
khả quan. 
• Với những BN đã phải dùng đến thuốc ức 
chế miễn dịch lâu dài trước khi được mổ thì hiệu 
quả lui bệnh sẽ chậm hơn, thậm chí thường có 
nguy cơ cao gây biến chứng suy hô hấp, cơn 
nhược cơ cấp sau mổ.(11) 
Corticoid có tác dụng ưu thế lên tế bào B 
(sản sinh ra kháng thể), những loại tế bào đang 
tăng trưởng nhanh và mạnh nhất. Trong khi các 
thuốc ức chế miễn dịch khác tác động lên tất cả 
các