Khảo sát kiến thức thực hành về việc dùng vitamin D phòng loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012

Mở đầu: Tại Việt Nam, tỷ lệ thiếu vitamin D ở độ tuổi từ 50 − 59 chiếm 51,4%. Phụ nữ ở thành thị có nguy cơ loãng xương cao hơn ở nông thôn. Các yếu tố sinh hoạt, ăn uống, vận động của từng cá nhân cũng làm gia tăng nguy cơ loãng xương cho phụ nữ sống ở các đô thị. Phụ nữ bận rộn thường có chế độ ăn uống thất thường. Chế độ làm việc căng thẳng bận rộn khiến cơ thể kém hấp thu các chất, bao gồm canxi và vitamin D Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát kiến thức và thực hành về việc sử dụng vitamin D trong phòng chống bệnh loãng xương ở phụ nữ tuổi tiền mãn kinh tại TpHCM. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phỏng vấn trực tiếp những phụ nữ ở độ tuổi từ 40 − 55 đến khám tại phòng khám phụ khoa bệnh viên Từ Dũ; được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2012. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ có kiến thức chung về vitamin D đạt 49,48%. Tỷ lệ phụ nữ có thực hành đúng về việc sử dụng vitamin D đạt 35,68%. Có mối liên quan giữa kiến thức chung về vitamin D với các đặc điểm dân số như: trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập kinh tế. Có mối liên quan giữa thực hành chung về vitamin D với các đặc điểm dân số như: trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập kinh tế. Có mối liên quan giữa thực hành chung với kiến thức chung về vitamin D. Kết luận: Có mối liên quan giữa thực hành chung với kiến thức chung về vitamin D với các đặc điểm dân số như: trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập kinh tế.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát kiến thức thực hành về việc dùng vitamin D phòng loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 133 KHẢO SÁT KIẾN THỨC THỰC HÀNH VỀ VIỆC DÙNG VITAMIN D   PHÒNG LOÃNG XƯƠNG Ở PHỤ NỮ TIỀN MÃN KINH   TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2012  Nguyễn Hồ Phương Liên*, Nguyễn Thị Kim Liên** TÓM TẮT  Mở đầu: Tại Việt Nam, tỷ lệ thiếu vitamin D ở độ tuổi từ 50 − 59 chiếm 51,4%. Phụ nữ ở thành thị có  nguy cơ loãng xương cao hơn ở nông thôn. Các yếu tố sinh hoạt, ăn uống, vận động của từng cá nhân cũng làm  gia tăng nguy cơ loãng xương cho phụ nữ sống ở các đô thị. Phụ nữ bận rộn thường có chế độ ăn uống thất  thường. Chế độ làm việc căng thẳng bận rộn khiến cơ thể kém hấp thu các chất, bao gồm canxi và vitamin D  Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát kiến  thức và  thực hành về việc sử dụng vitamin D  trong phòng  chống bệnh loãng xương ở phụ nữ tuổi tiền mãn kinh tại TpHCM.  Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phỏng vấn trực tiếp những phụ nữ ở độ tuổi từ 40 − 55 đến  khám tại phòng khám phụ khoa bệnh viên Từ Dũ; được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2012.  Kết quả: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ có kiến thức chung về vitamin D đạt 49,48%. Tỷ lệ phụ nữ có  thực hành đúng về việc sử dụng vitamin D đạt 35,68%. Có mối liên quan giữa kiến thức chung về vitamin D  với các đặc điểm dân số như: trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập kinh tế. Có mối liên quan giữa thực  hành chung về vitamin D với các đặc điểm dân số như: trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập kinh tế. Có  mối liên quan giữa thực hành chung với kiến thức chung về vitamin D.  Kết luận: Có mối liên quan giữa thực hành chung với kiến thức chung về vitamin D với các đặc điểm dân  số như: trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập kinh tế.  Từ khóa: loãng xương, tiền mãn kinh, vitamin D. ABSTRACT  SURVEY KNOWLEDGE AND PRACTICE ABOUT USING VITAMINE D TO PREVENT  OSTEOPOROSIS OF PREMENOPAUSE WOMEN IN HO CHI MINH CITY 2012  Nguyen thi Kim Lien, Nguyen Ho Phuong Lien  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 133 ‐ 139  Background: In Vietnam, vitamin D deficiency proportion in women, aged 50‐59 is 51.4%. Urban women  with high risk of osteoporosis than rural women. Living, dining,  locomotor  individual  factors also  increase the  risk of osteoporosis  for urban women. Busy women have often unusual diet. Taut, busy working mode make  calcium and vitamin D malabsortion body.  Objectives: The study survey knowledge and practice about using vitamin D to prevent osteoporosis in pre‐ menopausal women who come to Tu Du hospital in Ho Chi Minh city.  Method: Cross‐sectional study, direct  interviews with women, aged 40‐55 coming to Tu Du hospital  for  examinations from May to July of 2012.  Results: The survey reveals that the percentage of women having sufficient knowledge in using vitamin D  is 49.48%, and the percentage of having appropriate applications is 35.68%. There is a significant relationship  * Bộ môn Xét Nghiệm ‐ Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.   ** Khoa Xét nghiệm – BV. Chợ Rẫy.  Tác giả liên lạc: CN Nguyễn Hồ Phương Liên‐ ĐT: 0903144575‐ Email : phuonglien20051977@gmail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  134 between  the  knowledge  and  applications  in  using  vitamin  D  and  the  demographic  characteristics  such  as  educational level, occupation and economic status.   Conclusion: There is an association between general knowledge and general practice about vitamin D with  demographic characteristics such as education, occupation and income economy.  Key words: osteoporosis, premenopause, vitamin D.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Trong bối cảnh hiện tại ở thành phố Hồ Chí  Minh, tỷ lệ thiếu vitamin D ở độ tuổi từ 50 − 59  chiếm 51,4%(6). Theo ước tính của các chuyên gia,  khoảng  40  −  50%  dân  số  trên  thế  giới  thiếu  vitamin D(4). Hiện nay cùng với việc gia tăng tốc  độ đô thị hóa đến chóng mặt, tỷ lệ loãng xương  ngày càng cao ở các đô thị. Phụ nữ ở thành thị  có nguy cơ loãng xương cao hơn ở nông thôn(6).  Các  yếu  tố  sinh  hoạt,  ăn  uống,  vận  động  của  từng cá nhân cũng  làm gia  tăng nguy cơ  loãng  xương cho phụ nữ sống ở các đô  thị(2). Phụ nữ  bận rộn thường có chế độ ăn uống thất thường.  Phơi nắng là một yếu tố vô cùng quan trọng để  cơ thể có thể tự tổng hợp ra vitanin D cần thiết  cho hấp  thu canxi vào xương. Chế độ  làm việc  căng  thẳng bận  rộn khiến  cơ  thể kém hấp  thu  các chất, bao gồm canxi và vitamin D(6). Thành  phố Hồ Chí Minh là đô thị phát triển với dân số  đông  và  lối  sống  tấp  nập  nhất  của Việt Nam.  Đây  là một trong những nguyên nhân dẫn đến  thiếu hụt vitamin D như đã đề cập ở trên(6). Bệnh  viên Từ Dũ là một trong sáu bệnh viện phụ sản  lớn  nhất  cả  nước(5). Mỗi  tháng,  bệnh  viện  tiếp  nhận hơn 300 bệnh nhân ở lứa tuổi mãn kinh(4).  Nghiên  cứu  này  nhằm  khảo  sát  kiến  thức  và  thực  hành  về  việc  sử  dụng  vitamin  D  trong  phòng chống bệnh loãng xương của phụ nữ tuổi  mãn kinh đến khám tại phòng khám phụ khoa  bệnh viện Từ Dũ.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Cắt ngang mô tả.  Dân số mục tiêu  Dân  số mục  tiêu  của nghiên  cứu  là những  phụ  nữ  ở  độ  tuổi  40‐55  đến  khám  tại  phòng  khám phụ khoa bệnh viện Từ Dũ‐TpHCM.  Cỡ mẫu  2 2 2/1 )1( d PPZn −= −α   Với: Z0,975: trị số từ phân phối chuẩn.  α: xác suất sai lầm loại 1.  d: sai số cho phép.  P: tỷ lệ mong muốn.  Z0,975=1,96; α=0,05; d=0,05; P=0,5  Vậy: n = 384,16.  Như vậy, cỡ mẫu cần tiến hành nghiên cứu  là 384 người.  Tiêu chí chọn mẫu  Tiêu chí chọn vào Phụ nữ ở độ tuổi mãn kinh hiện đang sống  tại  TP.HCM  đến  khám  tại  phòng  khám  phụ  khoa bệnh viện Từ Dũ vào tháng 5, năm 2012.  Tiêu chí loại ra Không đồng ý tham gia phỏng vấn.  Người không có khả năng trả lời phỏng vấn.  Người trả lời không hoàn chỉnh bộ câu hỏi.  Kỹ thuật chọn mẫu  Chọn mẫu  thuận  tiện: điều  tra viên  trực  tại  phòng  khám  phụ  khoa  bệnh  viện  Từ  Dũ  và  phỏng vấn  tất  cả  đối  tượng  thỏa  tiêu  chí  chọn  mẫu cho đến khi đủ cỡ mẫu thì dừng.  Thu thập số liệu  Phương pháp thu thập dữ kiện Phỏng vấn trực tiếp những phụ nữ ở độ tuổi  từ 40 − 55 đến khám tại phòng khám phụ khoa  bệnh viên Từ Dũ.  Công cụ thu thập số liệu Sử dụng bảng  câu hỏi phỏng vấn  đã  được  soạn sẵn.  Phân tích số liệu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 135 Nhập  liệu  bằng  phần  mềm  EpiData  3.1.  Phân  tích  số  liệu  bằng  phần mềm  Stata  10.0.  Thống kê mô  tả: phân bố  tần  số và  tỷ  lệ phần  trăm  của  các  biến  số.  Thống  kê  phân  tích:  sử  dụng phép kiểm  chi bình phương  để xác  định  mối liên quan giữa kiến thức và thực hành với  trình độ văn hóa, kinh tế gia đình, nghề nghiệp  và tiến hành lượng hóa mối liên quan bằng tỷ số  tỷ lệ hiện mắc PR với khoảng tin cậy 95%.  Liệt kê và định nghĩa biến số  Nghề nghiệp Là biến danh định, gồm 4 giá trị:  ‐ Công nhân viên chức.  ‐ Buôn bán.  ‐ Nội trợ.  ‐ Khác: khi đối tượng cung cấp nguồn khác  các nguồn trên.  Trình độ văn hóa Là biến danh định, gồm 5 giá trị:  ‐ Không biết  chữ: khi  đối  tượng không  thể  đọc và không thể viết được.  ‐ Cấp 1: khi đối tượng học từ lớp 1 đến lớp 5.  ‐ Cấp 2: khi đối tượng học từ lớp 6 đến lớp 9.  ‐ Cấp 3: khi đối tượng học từ lớp 10 đến lớp  12.  ‐  Trên  cấp  3:  khi  đối  tượng  đã  học  xong  chương  trình  phổ  thông  và  có một  văn  bằng  hành  nghề  do  các  trung  tâm  dạy  nghề  hoặc  trường trung học, cao đẳng hay đại học cấp.  Thu nhập kinh tế Là biến nhị giá, gồm 2 giá trị:  ‐ Nghèo: đối tượng có thu nhập dưới 1 triệu  đồng/người/tháng(9).  ‐ Không nghèo: đối tượng có thu nhập trên 1  triệu đồng/người/tháng.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn với  384 phụ nữ ở độ tuổi từ 40 − 55. Trong đó, nghề  nghiệp  chủ  yếu  của  các  đối  tượng  là  nội  trợ  (41,67%),  kế  đến  là  buôn  bán  (29,69%),  công  nhân  viên  chức  (21,35%)  và  các  nghề  khác  (7,29%).   Về trình độ học vấn: đối tượng có trình độ  từ cấp 2  trở  lên chiếm đa số. Tỷ  lệ phụ nữ có  trình  độ  học  vấn  cấp  3  trở  lên  có  thực  hành  đúng về sử dụng vit D cao gấp 5.65 lần so với  những phụ nữ  có  trình  độ học vấn và không  biết  chữ. Trong  đó,  trình  độ  cấp  1  là  21,09%,  cấp  2  là  33,59%,  cấp  3  là  26,3%  và  17,71%  là  trên cấp 3. Tỷ lệ mù chữ thấp 1,3%.   Về  thu nhập kinh  tế:  đối  tượng nằm  trong  diện  không  nghèo  chiếm  đa  số  (82,55%),  diện  nghèo chỉ có 17,45%.  (Nghèo: đối  tượng có  thu  nhập  dưới  1  triệu  đồng/người/tháng.  Không  nghèo:  đối  tượng  có  thu  nhập  trên  1  triệu  đồng/người/tháng).  Kiến  thức  về  vitamin  D  và  việc  phòng  chống loãng xương  Phần  lớn các đối tượng được khảo sát cho  rằng  tuổi  tác  là  nguyên  nhân  dẫn  đến  bệnh  loãng xương  (54,43%), 204  (53,13%) đối  tượng  nhận  biết  thiếu  hụt  canxi  và  88  (22,92%)  đối  tượng nhận biết thiếu hụt vitamin D là nguyên  nhân mắc bệnh loãng xương. Về phòng chống  bệnh  loãng  xương:  184  (47,92%)  đối  tượng  phòng chống loãng cương bằng cách uống sữa,  170  (44,27%)  đối  tượng  tập  thể  dục  và  47  (12,24%)  đối  tượng  uống  thuốc  bổ  sung  vitamin D.   Bảng 1. Kiến thức về nguồn cung cấp vitamin D   (n = 384)  Phần lớn (64,06%) đối tượng có kiến thức về  nguồn cung cấp vitamin D. Về thực phẩm cung  cấp vitamin D, có 151 (39,32%) đối tượng có kiến  thức đúng. Trong đó, 83 (21,61%) đối tượng biết  được vitamin D có ở dầu cá, 126 (32,81%) nhận  biết vitamin D có ở cá biển , 58 (15,1%) đối tượng  Nguồn cung cấp vitamin D Tần số Tỷ lệ (%) Thực phẩm 177 46,09 Thuốc 164 42,71 Ánh nắng mặt trời 165 42,97 Nước ngọt 7 1,82 Không biết 130 33,85 Có kiến thức 246 64,06 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  136 nhận  biết  vitamin  D  có  ở  gan  động  vật,  90  (23,44%) đối tượng cho rằng vitamin D có ở lòng  đỏ  trứng  và  184  (47,92%)  đối  tượng  nhận  biết  vitamin D có ở sữa và các sản phẩm từ sữa. Tuy  nhiên, có đến 146 (38,02%) đối tượng không biết  về nguồn thực phẩm cung cấp vitamin D.  Bảng 2. Kiến thức về vai trò của vitamin D (n = 384)  Vai trò của vitamin D Tần số Tỷ lệ (%) Tăng cường hấp thu canxi 96 25 Tăng mật độ xương 84 21,88 Duy trì xương chắc khỏe 197 51,3 Không biết 145 37,76 Có kiến thức 239 62,24 Đối tượng có kiến thức đúng về vai trò của  vitamin D  khi  trả  lời  đúng  4/6  câu  hỏi  chiếm  62,24%.  Trong  đó,  197  (51,3%)  đối  tượng  biết  được vitamin D  có vai  trò duy  trì  xương  chắc  khỏe,  96  (25%)  nhận  biết  vitamin D  giúp  tăng  cường hấp  thu  canxi và 84  (21,88%)  đối  tượng  nhận  biết  vitamin D  làm  tăng mật  độ  xương.  Tuy nhiên, có 145 (37,76%) đối tượng không biết  vai trò của vitamin D đối với cơ thể.   Có 180  (46,88%)  đối  tượng  có kiến  thức về  các yếu tố làm cản trở cơ thể hấp thu vitamin D.  Trong đó 94 (24,48%) đối tượng nhận biết là che  chắn  khi  ra  ngoài  nắng,  88  (22,92%)  nhận  biết  mắc các bệnh về thận là yếu tố cản trở hấp thu  vitamin D,và 77 (20,05%) đối tượng cho rằng béo  phì  là yếu  tố  làm cản  trở. Tuy nhiên, phần  lớn  đối tượng không biết các yếu tố làm cản trở hấp  thu vitamin D, chiếm 53,13%.  Thực hành phòng chống loãng xương  Đối  tượng  có  thực  hành  đúng  (khi  trả  lời  đúng 4/6 câu hỏi thực hành) về việc tiếp xúc với  ánh nắng mặt  trời không cao  (28,39%). Có đến  275 (72,61%) đối tượng có thực hành sai về tiếp  xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời.  Có  156  (40,63%)  đối  tượng  có  thực  hành  đúng về uống  sữa  là  trong một  tuần  qua  tính  đến thời điểm khảo sát, số lần uống là 5 – 7 lần  trong  một  tuần  và  mỗi  lần  uống  là  một  ly  (200ml).  Bảng 3. Thực hành về việc cung cấp vitamin D   (n = 384)  Cung cấp vitamin D Tần số Tỷ lệ (%) Ăn thức ăn chứa vitamin D 180 46,88 Uống thuốc bổ sung vitamin D 56 14,58 Tắm nắng vào buổi sáng 77 20,05 Khác 1 0,26 Không có 169 44,01 Thực hành đúng 214 55,73 Về  việc  sử  dụng  kem  chống  nắng  khi  ra  ngoài  nắng:  có  đến  88,02%  đối  tượng  có  thực  hành đúng  là không sử dụng kem chống nắng  khi ra ngoài nắng. Tuy nhiên, về việc che chắn  khi  ra ngoài nắng  thì  chỉ  có  21,09%  đối  tượng  thực hành đúng là không che chắn.   Có 63,28% đối tượng thực hành đúng khi có  dấu hiệu đau nhức xương, 55,73% đối tượng có  thực hành đúng về cung cấp vitamin D cho cơ  thể,  40,63%  đối  tượng  có  thực  hành  đúng  về  uống sữa và chỉ 28,39% đối tượng có thực hành  đúng về tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.  Mối liên quan giữa kiến thức về vitamin D  với các đặc điểm dân số  Có mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  với  đặc  điểm dân số: trình độ học vấn, nghề nghiệp và  thu nhập kinh tế. Tỷ  lệ phụ nữ có trình độ học  vấn  từ cấp 3  trở  lên có kiến  thức về vitamin D  cao gấp 4,89 lần so với tỷ lệ phụ nữ có trình độ  học vấn cấp 1 và không biết chữ. Sự khác biệt  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05; PR = 4,89 và  KTC 95% = 3,07 − 7,77). Không có sự khác biệt có  ý nghĩa thống kê về kiến thức giữa tỷ lệ phụ nữ  có trình độ cấp 2 với tỷ lệ phụ nữ có trình độ cấp  1 và không biết chữ (p > 0,05).  Tỷ  lệ phụ nữ có nghề nghiệp  là buôn bán  có kiến  thức về vitamin D bằng 0,5  lần so với  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 137 tỷ lệ phụ nữ có nghề nghiệp là công nhân viên  chức. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <  0,05 và KTC 95% = 0,40 − 0,63). Tỷ lệ phụ nữ có  nghề nghiệp là nội trợ có kiến thức về vitamin  D bằng  0,49  lần  so với  tỷ  lệ phụ nữ  có nghề  nghiệp  là  công  nhân  viên  chức.  Sự  khác  biệt  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05 và KTC 95%  = 0,40 − 0,60). Tỷ  lệ phụ nữ  làm nghề khác có  kiến thức về vitamin D bằng 0,3 lần so với tỷ lệ  phụ  nữ  có  nghề  nghiệp  là  công  nhân  viên  chức.  Sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  (p  <  0,05 và KTC 95% = 0,16 − 0,57).   Bảng 4. Mối liên quan giữa kiến thức về vitamin D  với đặc điểm dân số (n = 384)  Đặc điểm dân số Kiến thức về vitamin D P PR KTC 95% Có Không Trình độ học vấn < 0,001 Mù chữ và cấp 1 15 (17,44%) 71 (82,56%) 1 Cấp 2 31 (24,03%) 98 (75,97%) 0,26 1,38 0,79 − 2,39 Cấp 3 trở lên 144 (85,21%) 25 (14,79%) 4,89 3,07 − 7,77 Nghề nghiệp < 0,001 Công nhân viên chức 69 (84,15%) 13 (15,85%) 1 Buôn bán 48 (42,11%) 66 (57,89%) 0,50 0,40 − 0,63 Nội trợ 66 (41,25%) 94 (58,75%) 0,49 0,40 − 0,60 Khác 7 (25%) 21 (75%) 0,30 0,16 − 0,57 Thu nhập kinh tế < 0,001 0,32 0,19 − 0,54 Nghèo 12 (17,91) 55 (82,09) Không nghèo 178 (56,15) 139 (43,85) PR: Prevalence Ratio (Tỷ số tỷ lệ hiện mắc)  Những phụ nữ  có  thu nhập kinh  tế  trên  1  triệu đồng/tháng có kiến thức về vitamin D cao  gấp 0,32  lần so với những phụ nữ có  thu nhập  kinh  tế  dưới  1  triệu  đồng/tháng.  Sự  khác  biệt  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05; PR = 0,32 và  KTC 95% = 0,19 − 0,54).  Có mối liên quan giữa thực hành về sử dụng  vitamin D với kiến  thức về vitamin D. Sự khác  biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05; PR =  6,34 và KTC 95% = 4,08 − 9,86. Những phụ nữ có  kiến  thức về vitamin D có  thực hành đúng cao  gấp 6,34 lần so với những phụ nữ không có kiến  thức về vitamin D.  BÀN LUẬN  Tỷ lệ phụ nữ có kiến thức chung về vitamin  D không cao 49,48%. Có đến 64,06% đối  tượng  biết được nguồn cung cấp vitamin D. Trong đó,  42,97%  biết  được  ánh  nắng mặt  trời  cung  cấp  vitamin  D  nhưng  có  đến  33,85%  đối  tượng  không biết vitamin D có ở đâu. Kết quả này so  với nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan(3) là 37%  nghĩ  rằng  vitamin D  đến  từ mặt  trời  và  17%  không  biết  về  nguồn  cung  cấp  vitamin D.  Sự  khác  biệt  này  có  thể do  cỡ mẫu  và  đối  tượng  nghiên cứu khác nhau.  Có  đến 62,24%  đối  tượng biết  được vai  trò  của vitamin D đối với cơ thể. Tuy nhiên, chỉ có  13,02% đối tượng biết được hàm lượng vitamin  D cần thiết cho cơ thể mỗi ngày để phòng chống  được bệnh  loãng xương. Vì chế phẩm uống có  chứa  vitamin  D  đơn  thuần  có  sẵn  trên  thị  trường, tuy nhiên giá khá cao do vậy người dân  không  quan  tâm  nhiều  đến  vấn  đề  bổ  sung  vitamin  D  bằng  đường  uống(1)  Điều  này  cho  thấy sản phẩm bổ sung vitamin D vẫn còn chưa  phổ biến đến người dân.  Tỷ lệ phụ nữ có thực hành đúng về việc sử  dụng vitamin D  là không cao 35,68%. Phần  lớn  (55,73%) đối tượng có thực hành đúng về cung  cấp vitamin D cho cơ  thể. Trong đó,  thực hành  về bổ sung thực phẩm có chứa vitamin D và tắm  nắng  vào  buổi  sáng  là  phổ  biến  nhất,  rất  ít  (14,58%)  đối  tượng  trả  lời  là  có dùng  thuốc bổ  sung vitamin D. Điều này càng chứng tỏ là sản  phẩm bổ  sung vitamin D  còn hạn  chế  đối  với  người  dân  như  đã  đề  cập  ở  phần  kiến  thức  chung về vitamin D, mà ở độ  tuổi này phụ nữ  rất cần phải uống bổ sung vitamin D để có đủ  lượng vitamin D cho cơ thể, không chỉ dựa vào  thức ăn đơn  thuần(8). Đến 63,28% đối  tượng  trả  lời là sẽ đến bệnh viện kiểm tra khi có dấu hiệu  đau nhức xương,  đây  là dấu hiệu  rõ  của bệnh  loãng  xương.  Về  tình  trạng  tiếp  xúc  với  ánh  nắng mặt trời: ánh nắng mặt trời là nguồn cung  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  138 cấp vitamin D chủ yếu cho người lớn và trẻ em,  tắm  nắng  vùng mặt,  tay  và  bàn  tay  từ  5  −  15  phút, 4 – 6 lần 1 tuần tạo được 1.000 IU vitamin  D.  Theo kết quả nghiên cứu: trong 1 tuần qua,  tính từ thời điểm khảo sát, có 88,02% đối tượng  thực hành  đúng  là không  sử dụng kem  chống  nắng khi ra ngoài  trời nắng vào buổi sáng  từ 6  giờ  đến  10  giờ  nhưng  chỉ  có  21,09%  trả  lời  là  không che chắn khi ra ngoài trời nắng vào cùng  thời  điểm.  Đồng  thời  chỉ  28,39%  đối  tượng  có  thực hành đúng là có tiếp xúc với ánh nắng mặt  trời  mà  không  sử  dụng  biện  pháp  che  chắn  trong khoảng từ 3 − 7 ngày, từ 6 giờ đến 10 giờ  và mỗi  ngày  tiếp  xúc  từ  5  −  15  phút.  Vì  đối  tượng khảo sát  là phụ nữ nên đa số họ giữ gìn  nhan  sắc  bằng  cách  tránh  nắng  khi  ra  ngoài  nắng,  phần  đông  họ  che  chắn  như  đeo  khẩu  trang, mặc  áo  khoác  hay mang  vớ  chân,  găng  tay. Tuy nhiên,  chỉ  có  11,98%  đối  tượng  có  sử  dụng kem chống nắng khi  ra ngoài nắng, điều  này có thể giải thích do thành phố khí hậu nóng  bức, da thường bị đổ mồ hôi, nhờn và rít vì thế  nên họ ngại thoa sản phẩm chống nắng  lên da.  Và  đối  tượng  là  phụ  nữ  trung  niên  nên  họ  ít  cũng có thói quen sử dụng sản phẩm này.  Từ kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên  quan  giữa  kiến  thức  chung  về  vitamin D  với  trình độ học vấn của đối  tượng  (p < 0,05), kiến  thức của phụ nữ về vitamin D có khuynh hướng  tăng theo trình độ học vấn. Phụ nữ có trình độ  học vấn từ cấp 3 trở lên có kiến thức cao gấp 4,89  lần  so với những phụ nữ  có  trình  độ  cấp 1 và  không  biết  chữ.  Điều  này  cho  thấy  người  có  trình độ học vấn cao thường có khuynh hướng  tìm hiểu những kiến  thức mới, đặc biệt  là kiến  thức có lợi cho sức khỏe hơn.  Tỷ  lệ phụ nữ có  trình độ học vấn cấp 3  trở  lên có thực hành đúng về sử dụng vitamin D cao  gấp 5,65  lần  so với những phụ nữ  có  trình  độ  học  vấn  cấp  1  và  không  biết  chữ.  Đồng  thời  những phụ nữ có nghề nghiệp là công nhân viên  chức  có  khuynh  hướng  là  có  thực  hành  đúng  cao  hơn  so  với  những  nghề  khác.  Điều  này  chứng tỏ tri thức và nghề nghiệp có ảnh hưởng  đến thực hành của các đối tượng.  Với p < 0,05 và PR = 6,34 cho thấy giữa kiến  thức
Tài liệu liên quan