Mở đầu: Rối loạn lipid huyết vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau
nên việc phát hiện sớm rối loạn lipid huyết là rất quan trọng và cần thiết.
Mục tiêu: Khảo sát mối liên hệ rối loạn lipid huyết với một số yếu tố nguy cơ tim mạch.
Phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện 87 - Quân chủng Hải
quân, từ tháng 9/2011 đến tháng 01/2012 (n= 527).
Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi có 527 đối tượng có tuổi từ 20 đến 84 gồm 321 nam (chiếm
60,9%), 206 nữ (chiếm 39,1%). Tỷ lệ tăng vòng bụng ở nhóm nghiên cứu là 27,83%. Tỷ lệ rối loạn lipid huyết là66,60%. Tăng cholesterol toàn phần (CT) chiếm tỷ lệ cao nhất là 54,08%; tiếp đến là tăng triglycerid (TG)
(40,61%); tăng LDL-C (30,02%) và giảm HDL-C (12,14%). Các yếu tố nguy cơ tim mạch gồm rối loạn lipid
huyết có tỷ lệ cao nhất 66,60%, tiếp theo là đái tháo đường (30,74%); tăng huyết áp (26,56%); béo phì (17,26%) và hút thuốc lá (16,31%) (chỉ gặp ở nam giới). Tỷ lệ rối loạn lipid huyết ở các đối tượng hút thuốc lá và đái tháo đường cao hơn các đối tượng không hút thốc lá và không bị đái tháo đường (xấp xỉ 10%) (p < 0,05).
Kết luận: Rối loạn lipid huyết ở các đối tượng có yếu tố nguy cơ tim mạch như béo phì, hút thuốc lá và đái
tháo đường cao hơn các đối tượng không hút thốc lá và không bị đái tháo đường.
7 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối liên hệ rối loạn lipid huyết với một số yếu tố nguy cơ tim mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 1
KHẢO SÁT MỐI LIÊN HỆ RỐI LOẠN LIPID HUYẾT
VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH
Lê Xuân Trường*, Bùi Thị Hồng Châu*, Lâm Thùy Như*, Hà Thị Hương Giang**
TÓM TẮT
Mở đầu: Rối loạn lipid huyết vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau
nên việc phát hiện sớm rối loạn lipid huyết là rất quan trọng và cần thiết.
Mục tiêu: Khảo sát mối liên hệ rối loạn lipid huyết với một số yếu tố nguy cơ tim mạch.
Phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện 87 - Quân chủng Hải
quân, từ tháng 9/2011 đến tháng 01/2012 (n= 527).
Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi có 527 đối tượng có tuổi từ 20 đến 84 gồm 321 nam (chiếm
60,9%), 206 nữ (chiếm 39,1%). Tỷ lệ tăng vòng bụng ở nhóm nghiên cứu là 27,83%. Tỷ lệ rối loạn lipid huyết là
66,60%. Tăng cholesterol toàn phần (CT) chiếm tỷ lệ cao nhất là 54,08%; tiếp đến là tăng triglycerid (TG)
(40,61%); tăng LDL-C (30,02%) và giảm HDL-C (12,14%). Các yếu tố nguy cơ tim mạch gồm rối loạn lipid
huyết có tỷ lệ cao nhất 66,60%, tiếp theo là đái tháo đường (30,74%); tăng huyết áp (26,56%); béo phì (17,26%)
và hút thuốc lá (16,31%) (chỉ gặp ở nam giới). Tỷ lệ rối loạn lipid huyết ở các đối tượng hút thuốc lá và đái tháo
đường cao hơn các đối tượng không hút thốc lá và không bị đái tháo đường (xấp xỉ 10%) (p < 0,05).
Kết luận: Rối loạn lipid huyết ở các đối tượng có yếu tố nguy cơ tim mạch như béo phì, hút thuốc lá và đái
tháo đường cao hơn các đối tượng không hút thốc lá và không bị đái tháo đường.
Từ khóa: Rối loạn lipid huyết, yếu tố nguy cơ tim mạch.
ABSTRACT
THE RELATION OF PLASMA LIPID PROFILE WITH CARDIOVASCULAR RISK FACTORS
Le Xuan Truong, Bui Thi Hong Chau, Lam Thuy Nhu, Ha Thi Huong Giang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 1 - 6
Background: Plasma lipid profile is considered both a cause and a consequence of various pathological states.
As a result, early detection of plasma lipid profile plays very important and necessary role.
Objective: To define the relation of plasma lipid profile with cardiovascular risk factors.
Methods: Prospective cross-sectional observational study. This study has been performed in hospital 87 -
Navy from September 2011 to January 2012 (n=527).
Results: There were 527 patients with age ranging from 20 to 84, including 321 males (60.9%) and 206
females (39.1%). In the study group, increasing waist was 27.83%. Plasma lipid profile was 66.60%. The total
cholesterol had a high rate is 54.08%; followed by triglyceride (40.61%); increased LDL-C (30.02%) and lower
HDL-C (12.14%). Among cardiovascular risk factors, plasma lipid profile had the highest rate 66.60%, followed
by diabetes (30.74%); hypertension (26.56%); obesity (17, 26%) and smoking (16.31%) (only found in men). The
rate of plasma lipid profile in patients smoking and diabetes was higher than patients no smoking and not diabetes
(approximately 10%) (p <0.05).
Conclusion: Plasma lipid profile in patients with cardiovascular risk factors such as obesity, smoking and
diabetes was higher than those no smoking and not diabetes.
* Bộ môn Hoá Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM, ** Bệnh viện 87 – Quân Chủng Hải Quân
Tác giả liên lạc: TS. BS. Lê Xuân Trường ĐT: 01269872057 Email: lxtruong57@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 2
Keywords: Plasma lipid profile, cardiovascular risk factors
MỞ ĐẦU
Rối loạn lipid huyết là một yếu tố nguy cơ
chính của nhiều bệnh và đây là một trong những
yếu tố khởi đầu cho quá trình hình thành và
phát triển mảng xơ vữa của bệnh động mạch
vành. Có rất nhiều nguyên nhân gây rối loạn
lipid huyết như: ăn quá nhiều mỡ động vật, ăn
quá nhiều thức ăn có chứa nhiều cholesterol, béo
phì, uống quá nhiều rượu... hoặc là rối loạn thứ
phát của các bệnh lý (đái tháo đường, hội chứng
thận hư). Kinh tế ngày càng phát triển, sự hiện
đại hóa trong cuộc sống với đầy đủ những tiện
nghi đã làm cho con người trở nên ít vận động.
Mức sống được cải thiện làm thay đổi hẳn cơ cấu
bữa ăn cả về số lượng và chất lượng. Đó là
những lý do gây tăng tỷ lệ thừa cân và rối loạn
lipid huyết cũng như gia tăng các yếu tố nguy cơ
tim mạch, bệnh mạch vành, bệnh tăng huyết áp,
bệnh đái tháo đường, xương khớp
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện 87, từ
tháng 9/2011 đến tháng 01/2012.
Cỡ mẫu
Theo công thức:
2
1 / 2
2
Z P 1 P
n
d
Với n: Cỡ mẫu.
Z: Trị số từ phân phối chuẩn.
α: Xác xuất sai lầm loại I, chọn α = 0,05 nên Z =
1,96.
p: Tỷ lệ rối loạn lipid máu (p = 60%)
d: Sai số cho phép, chọn d = 0,05
n ≥ 369 bệnh nhân.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.
Các trường hợp trong mẫu nghiên cứu được
thu thập đầy đủ các chỉ số: huyết áp, cân nặng,
chiều cao, vòng bụng, vòng mông và xét nghiệm
về glucose huyết và lipid huyết gồm cholesterol,
triglycerid, HDL - cholesterol, LDL - cholesterol.
Xét nghiệm được thực hiện tại khoa xét nghiệm
Bệnh viện 87 - Quân chủng Hải quân, sử dụng
hoá chất của hãng Roche và tiến hành trên máy
sinh hoá tự động Hitachi 902 của Nhật Bản. Các
xét nghiệm luôn đảm bảo theo đúng nguyên tắc
về kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm. Trong
nghiên cứu này chúng tôi tập trung vào các yếu
tố sau: tuổi, giới, rối loạn lipid huyết, tăng huyết
áp, đái tháo đường, hút thuốc lá, béo phì. Chẩn
đoán rối loạn lipid huyết theo Hội Tim mạch
Việt Nam, có rối loạn chuyển hóa lipid khi có ít
nhất một trong các chỉ số sau(4,5,8): cholesterol toàn
phần (CT) ≥ 5,2 mmol/l; triglycerid (TG) ≥ 2,3
mmol/l; LDL - cholesterol (LDL – C) ≥ 3,4
mmol/l; HDL - cholesterol (HDL – C) ≤ 0,9
mmol/l. Tiêu chuẩn xác định thể trạng dựa vào
BMI(12). Xác định có tăng BMI khi chỉ số khối cơ
thể ≥ 23. Tăng vòng bụng khi số đo vòng bụng ≥
90 cm ở nam; ≥ 80 cm ở nữ. Tăng vòng
bụng/vòng mông (VB/VM) khi giá trị chỉ số
VB/VM ≥ 0,9 ở nam; ≥ 0,85 ở nữ. Chẩn đoán béo
phì theo WHO, phân loại béo phì theo tình trạng
phân bố mỡ trên cơ thể dành cho người trưởng
thành Châu Á(13, 14). Phân loại tăng huyết áp theo
Hội tim mạch học Việt Nam(5).
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 527 đối
tượng có tuổi từ 20 đến 84 gồm 321 nam (chiếm
60,9%), 206 nữ (chiếm 39,1%).
Bảng 1: Tuổi và các chỉ số nhân trắc.
Thông số Nam (n= 321) Nữ (n= 206) p
Tuổi trung bình (năm) 53 ± 12 57 ± 12 < 0,05
Chiều cao trung bình
(cm)
165 ± 5 155 ± 5 < 0,05
Cân nặng trung bình
(kg)
63 ± 8 53 ± 7 < 0,05
BMI
Trung bình (kg/m
2
)
Tăng, n (%)
23,14 ± 2,49
170 (52,96%)
22,04 ± 2,57
73 (35,44%)
< 0,05
VB
Trung bình (cm)
79,56 ± 7,76
74,16 ± 7,02
< 0,05
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 3
Thông số Nam (n= 321) Nữ (n= 206) p
Tăng, n (%) 27 (8,41%) 40 (19,42%)
VM trung bình (cm) 90,47 ± 6,01 86,52 ± 6,04 < 0,05
VB/VM
Trung bình
Tăng, n (%)
0,88 ± 0,05
114 (35,51%)
0,86 ± 0,05
134(65,05%)
< 0,05
Nhiều nghiên cứu cho thấy chỉ số BMI rất
khác nhau giữa các vùng trên thế giới. Nếu như
ở các nước Âu-Mỹ, tỷ lệ người mắc bệnh đái
tháo đường týp 2 có chỉ số BMI ≥ 30 rất cao, thì
ngược lại ở các nước khu vực Đông Nam châu
Á, đặc biệt là các nước Asean chỉ số này rất thấp
nếu áp dụng cùng mức tiêu chuẩn(12). Trong
nghiên cứu này áp dụng tiêu chuẩn của WHO
dành cho người trưởng thành châu Á và kết quả
bảng 1 cho thấy chỉ số khối cơ thể của nam cao
hơn nữ (23,14 ± 2,49 so với 22,04 ± 2,57).
Tỷ lệ tăng cân giữa nam và nữ có sự khác
biệt (nam: 52,69%; nữ: 35,44%). Số đo vòng bụng
là một tiêu chí bắt buộc để chẩn đoán hội chứng
chuyển hóa và chỉ số vòng bụng/vòng mông là
một tiêu chí để chẩn đoán béo phì trung tâm
(béo bụng). Bảng 1 cũng cho thấy tỷ lệ tăng vòng
bụng ở nhóm nghiên cứu là 27,83%. Nam có số
đo trung bình vòng bụng và chỉ số vòng bụng
trên vòng mông cao hơn nữ, nhưng nữ có tỷ lệ
tăng vòng bụng cao hơn nam (19,42% so với
8,41%). Béo bụng là tính đến lượng mỡ dư thừa
tập trung ở dưới da bụng và trong ổ bụng. Tình
hình béo bụng do ít vận động thể lực đang ngày
càng gia tăng. Các nghiên cứu gần đây cho thấy
béo vùng bụng hay còn gọi là béo trung tâm có
giá trị hơn BMI trong đánh giá vữa xơ động
mạch. Người ta thấy lượng mỡ trong bụng khác
nhau ở 2 người có cùng BMI và các biến chứng
tim mạch tăng lên ở người có vòng bụng lớn
hơn(2). Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Kim
Thủy(7) cho thấy có sự tương quan thuận giữa
vòng bụng/vòng mông với huyết áp, TG và LDL
– cholesterol tương quan nghịch với HDL -
cholesterol. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
bảng 1 cũng cho thấy có 248/527 = 47,06% bệnh
nhân béo bụng (tỷ lệ vòng bụng trên vòng mông
> 0,9 ở nam, > 0,85 ở nữ).
Bảng 2: Kết quả xét nghiệm máu của nhóm nghiên
cứu.
Các chỉ số
(mmol/l)
Chung
(n = 527)
Nam
(n = 321)
Nữ
(n = 206)
CT 5,39 ± 1,04 5,34 ± 1,07 5,47 ± 0,99
TG 2,25 ± 1,20 2,33 ± 1,29 2,13 ± 1,04
LDL-Cl 2,83 ± 1,12 2,78 ± 1,13 2,91 ± 1,09
HDL-Cl 1,54 ± 0,43 1,52 ± 0,44 1,57 ± 0,41
Glucose 5,61 ± 1,75 5,69 ± 1,90 5,34 ± 1,14
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy giá trị
trung bình nồng độ của các chỉ số lipid huyết ở
mức cao có CT (5,39 ± 1,04 mmol/l). Ở mức bình
thường có TG (2,25 ± 1,2 mmol/l); LDL-C (2,83 ±
1,12 mmol/l) và HDL-C (1,54 ± 0,43 mmol/l). Giá
trị trung bình nồng độ của xét nghiệm glucose
huyết là 5,61 ± 1,75 mmol/l. Nồng độ glucose
huyết 5,6 mmol/l là giới hạn dưới của một trong
bốn tiêu chí kết hợp với béo phì dạng nam để
chẩn đoán hội chứng chuyển hóa theo Liên đoàn
đái tháo đường quốc tế năm 2006. Vì vậy, trong
thực hành lâm sàng cần điều chỉnh đường huyết
ngay ở giới hạn này.
Tình trạng rối loạn lipid huyết ở nhóm nghiên cứu
Bảng 3: Tỷ lệ các mức nồng độ lipid huyết.
Chỉ số lipid (mmol/l) Chung (n=527) Nam (n=321) Nữ (n=206)
CT
Bình thường: < 5,2 242 (45,92) 158 (49,22) 84 (40,77)
Cao giới hạn: 5,2 - 6,1 159 (30,17) 85 (26,47) 74 (35,92)
Cao: ≥ 6,2 126 (23,9) 78 (24,29) 48 (23,3)
TG
Bình thường: < 1,7 192 (36,43) 115 (35,82) 77 (37,37)
Cao giới hạn: 1,7 - 2,2 123 (23,33) 64 (19,93) 59 (28,64)
Cao: 2,3 - 5,6 203 (38,51) 113 (35,2) 90 (43,68)
Rất cao: ≥ 5,7 9 (1,7) 9 (2,8) 0
LDL-C
Tối ưu: < 2,6 225 (42,69) 146 (45,48) 79 (37,93)
Gần tối ưu: 2,6 - 3,3 128 (24,29) 73 (22,74) 55 (26,7)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 4
Chỉ số lipid (mmol/l) Chung (n=527) Nam (n=321) Nữ (n=206)
Cao giới hạn: 3,4 - 4 86 (16,33) 46 (14,33) 40 (19,42)
Cao: 4,1- 4,7 68 (12,9) 46 (14,33) 28 (13,59)
Rất cao: ≥ 4,8 20 (3,79) 10 (3,11) 10 (4,85)
HDL-C
Thấp: < 1 64 (12,14) 43 (13,39) 21 (10,19)
Cao: ≥ 1,5 342 (64,98) 198 (61,68) 144 (69,9)
Bảng 4: Tỷ lệ rối loạn các thành phần lipid huyết.
Chung
(N = 527)
Nam
(n = 321)
Nữ
(n = 206)
Tăng CT 285 (54,08) 163 (50,78) 122 (59,22)
Tăng TG 214 (40,61) 142(26,94) 72 (34,95*)
Tăng LDL-C 174 (30,02) 102 (31,77) 720 (34,95)
Giảm HDL-C 64 (12,14) 43 (13,39) 21 (10,19)
*:p < 0,05 so sánh nam và nữ.
Hội Tim mạch học Việt Nam khuyến cáo
đánh giá mức độ rối loạn lipid huyết theo nồng
độ các chỉ số lipid huyết. Theo đó, nồng độ HDL-
C được phân ra làm 2 mức là thấp và cao; nồng
độ CT chia ra 3 mức là bình thường, cao giới hạn
và cao; nồng độ TG có 4 mức là bình thường, cao
giới hạn, cao và rất cao; nồng độ LDL-C được
phân thành 5 mức là tối ưu, gần tối ưu, cao giới
hạn, cao và rất cao. Cách phân chia này có lẽ là
dựa vào vai trò của các chỉ số lipid huyết đối với
bệnh vữa xơ động mạch, mà đặc biệt là nồng độ
LDL-C, từ đó có các biện pháp điều trị thích hợp.
Kết quả ở Bảng 3 cho thấy nồng độ CT ở
mức bình thường (<5,2mmol/l) là 45,92%; nồng
độ TG ở mức bình thường (<1,7mmol/l) là
36,43%; nồng độ LDL-C tối ưu là 42,69% và nồng
độ HDL-C ở mức cao là 64,98%. Nồng độ TG ở
mức từ cao giới hạn trở lên chiếm tỷ lệ đáng kể
(63,54%), nồng độ LDL-C ở mức gần tối ưu trở
lên là 57,31%, nồng độ CT ở mức từ cao giới hạn
trở lên chiếm 54,08% và nồng độ HDL-C ở mức
thấp là 12,4%. Điều này cho thấy việc theo dõi
nồng độ lipid huyết một cách chặt chẽ là hết sức
cần thiết, đồng thời phải có ngay các biện pháp
nhằm kiểm soát lipid huyết tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4 cho thấy tỷ lệ
rối loạn các chỉ số lipid huyết trong toàn nhóm
bao gồm tăng CT là 54,08%; tăng TG là 40,61%;
tăng LDL-C là 30,02% và giảm HDL-C là 12,14%.
Có sự khác biệt giữa nam và nữ ở tăng TG.
Mối liên hệ giữa rối loạn lipid huyết
(RLLP) với một số yếu tố nguy cơ tim mạch
Bảng 5: Yếu tố nguy cơ tim mạch ở nhóm nghiên
cứu.
Thông số
Chung
(N = 527)
Nam
(n = 321)
Nữ
(n = 206)
RLLP huyết 351 (66,60) 212 (66,04) 139 (67,47)
Hút thuốc lá 86 (16,31) 86 (26,79) 0
Béo phì 91 (17,26) 67 (20,87) 24 (11,65)
THA 140 (26,56) 90 (28,03) 50 (24,27)
ĐTĐ 162 (30,74) 97 (30,21) 65 (31,55)
*: P < 0,05 so sánh nam và nữ.
Rối loạn lipid huyết chiếm tỷ lệ cao nhất
66,60%, tiếp đến là ĐTĐ 30,74%; THA là 26,56%;
béo phì là 17,26% và hút thuốc lá là 16,31%. Có
sự khác biệt giữa nam và nữ.
Bảng 6: Hút thuốc lá, ĐTĐ và RLLP huyết.
Yếu tố nguy cơ Bình thường RLLP huyết p
Hút
thuốc lá
Không
(n=441)
165 (37,42%) 276 (62,58%)
<
0,05
Có (n=86) 21 (24,42%) 65 (75,58%)
Đái tháo
đường
Không
(n=365)
135 (36,99%) 230 (63,01%)
<
0,05
Có (n=162) 41 (25,31%) 121 (74,69%)
Rối loạn lipid huyết ở các đối tượng hút
thuốc lá và đái tháo đường cao hơn các đối
tượng không hút thốc lá và không bị đái tháo
đường (khoảng 10%). Vấn đề các yếu tố nguy cơ
của bệnh động mạch vành nói chung đã được
nghiên cứu rất rõ và được chứng minh là các yếu
tố nguy cơ động mạch vành có liên quan đến
việc tăng khả năng mắc bệnh động mạch vành
và việc can thiệp các yếu tố nguy cơ này làm
giảm tỷ lệ mắc và tiến triển của bệnh động mạch
vành. Có những yếu tố nguy cơ có thể tác động
được, có những yếu tố nguy cơ không thể tác
động được. Tuy vậy, rất cần sự hiểu biết và thái
độ tốt với các yếu tố nguy cơ (kể cả không tác
động được) để chúng ta có thể chủ động ngăn
ngừa các biến cố tim mạch(4). Kết quả nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 5
ở bảng 7 cho thấy tần suất và phân bố các yếu tố
nguy cơ tim mạch theo giới, so sánh với một số
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Tính(9)
thực hiện tại Bệnh viện Trung ương Quân đội
175 và của tác giả Lê Thị Bích Thuận(6) thực hiện
tại Bệnh viện Trung ương Huế.
Bảng 7: So sánh tỷ lệ các yếu tố nguy cơ (YTNC) tim
mạch với một số nghiên cứu.
YTNC
Nghiên cứu
này
Nguyễn Minh
Tính
Lê Thị Bích
Thuận
RLLP huyết 66,60% 52,6% 46%
Hút thuốc lá 16,31% 39,1% 31%
Béo phì 17,26% 45,3% 16%
THA 26,56% 35,5% 39,1%
ĐTĐ 30,74% 24,5% 17,7%
Tất cả các bằng chứng nghiên cứu đều cho
thấy hút thuốc lá làm tăng tỷ lệ mới mắc và tử
vong do các bệnh tim mạch. Tổng kết năm 1990
qua 10 nghiên cứu thuần tập theo dõi 20 triệu
lượt người-năm, cho thấy nguy cơ mắc bệnh
mạch vành ở người hút thuốc lá cao hơn rõ rệt so
với người không hút thuốc, nguy cơ tương đối
tử vong do bệnh mạch vành cao gấp 1,7 lần. Hút
thuốc cũng làm tăng nguy cơ đột quỵ thêm 1,5
lần(5).
Hút thuốc lá là một trong những yếu tố nguy
cơ quan trọng nhất của bệnh tim mạch. Tác hại
của thuốc lá đối với thành mạch và góp phần tạo
nên vữa xơ động mạch đã được chứng minh trên
thực nghiệm và trên lâm sàng. Thuốc lá làm
giảm nồng độ HDL-C, tăng nồng độ TG và LDL-
C trong máu. Thuốc lá làm tăng nồng độ oxyt
cacbon trong máu dẫn đến giảm khả năng cung
cấp oxy cho tổ chức và làm tổn thương tế bào nội
mạc. Chất nicotin trong thuốc lá gây co mạch
làm tăng huyết áp và thiếu máu cơ tim(1,11,3).
Trong 527 đối tượng nghiên cứu có 86 người
hút thuốc lá, chiếm 16,31%; không gặp một phụ
nữ nào hút thuốc lá. Thiết nghĩ chiều hướng này
là kết quả của nhận thức tốt về tác hại của thuốc
lá đồng thời cũng phản ánh sự nỗ lực để bỏ được
thói quen hút thuốc của mỗi cá nhân.
Hiện nay đái tháo đường được coi là một
yếu tố nguy cơ tương đương bệnh động mạch
vành (yếu tố nguy cơ tương đương với mắc bệnh
mạch vành bao gồm bệnh lý xơ vữa động mạch
ngoài động mạch vành và đái tháo đường)(4).
Bệnh nhân đái tháo đường vốn dễ bị rối loạn
chuyển hóa lipid, bệnh nhân đái tháo đường týp
1 cũng tăng khả năng bị bệnh mạch vành dù
lipoprotein huyết có vẻ bình thường(10). Kết quả
nghiên cứu ở bảng 5 cho thấy tỷ lệ đái tháo
đường gặp 30,74% chung cho cả nhóm, tỷ lệ ở
nam nữ gần tương đương. Kết quả này nói lên
sự cần thiết phải kiểm soát đường huyết tốt hơn
nữa để ngăn ngừa các biến chứng nhất là biến
chứng tim mạch.
KẾT LUẬN
Rối loạn lipid huyết ở các đối tượng có yếu tố
nguy cơ tim mạch như béo phì, hút thuốc lá và
đái tháo đường cao hơn các đối tượng không hút
thốc lá và không bị đái tháo đường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barbieri SS, Weksler BB (2007), “Tobacco smoke cooperates
with interleukin-1beta to alter beta-catenin trafficking in
vascular endothelium resulting in increased permeability and
induction of cyclooxygenase-2 expression in vitro and in vivo”.
FASEB J, 21(8); pp. 1831- 43.
2. Després J. P (2006), “Abdominal obesity and cardiometabolic
dieases”. Eur. Heart. Journal, Vol 8 (S B); pp. B1 - B33.
3. Grundy SM et al (2004), “Implications of Recent Clinical Trials
for the National Cholestrol Education Program Adult
Treatment Panel III Guidelines”. Circulation; 110; pp. 227-239.
4. Hội Tim mạch học Việt Nam (2006), “Khuyến cáo về các bệnh
lý tim mạch và chuyển hoá giai đoạn 2006 – 2010”. tr. 365 - 87.
5. Hội Tim mạch học Việt Nam (2008), “Khuyến cáo về các bệnh
lý tim mạch và chuyển hoá”. tr. 1 - 2; 235 - 45; 476 - 97.
6. Lê Thị Bích Thuận (2005), “Nghiên cứu sự biến đổi Protein
phản ứng C (CPR) trong bệnh mạch vành”. Luận án Tiến sỹ Y
khoa, Đại học Y khoa Huế.
7. Nguyễn Kim Thuỷ, Đào Thu Giang (2007), “Tìm hiểu mối liên
quan giữa béo phì với tăng huyết áp và rối loạn lipid máu”.
Tạp chí Y - Dược học lâm sàng 108, 2, 1/2007, tr. 23 - 26.
8. Nguyễn Lân Việt (2007), “Thực hành bệnh tim mạch”. Nhà
xuất bản Y học, tr. 124 - 134.
9. Nguyễn Minh Tính (2006), “Nghiên cứu sự biến đổi nồng độ
Protein phản ứng – C ở những người có yếu tố nguy cơ vữa xơ
động mạch”. Luận văn Bác sỹ CKII, Học viện Quân y.
10. Nguyễn Thy Khuê (2007), “Rối loạn chuyển hóa lipid, hội
chứng chuyển hóa”. Nội tiết học đại cương, Nhà xuất bản Y
học, tr. 457 - 502.
11. Phạm Mạnh Hùng (2005), “Các yếu tố nguy cơ của bệnh tim
mạch”. Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, số 40, tr. 100 - 7.
12. Tạ Văn Bình (2001), “Bệnh béo phì - Nguy cơ và thái độ của
chúng ta”. Tạp chí Y học thực hành, 12/2001, tr. 16 - 24.
13. Tạ Văn Bình (2007), “Những nguyên lý nền tảng bệnh đái tháo
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 6
đường tăng glucose máu”. Nhà xuất bản Y học, tr. 667 - 723.
14. WHO expert consultation (2004), “Appropriate body - mass
index for Asian populations and its implications for policy and
intervention strategies”. Lacet, 363; pp.157 - 63.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 7
NGHIÊN CỨU ĐỘ DÀY ÁO TRONG - ÁO GIỮA Ở ĐỘNG MẠCH CẢNH CHUNG
TRONG XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH Ở NGƯỜI NAM GIỚI HÀN QUỐC
Trần Thị Thanh Loan*, Hye-Jin Park**; Ho-Dirk Kim***
TÓM TẮT
Mở đầu: Độ dày áo trong – áo giữa (AT - AG) được xem như phép đo thay thế của xơ vữa động mạch