Khảo sát mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú

Đặt vấn đề: Bệnh tim mạch chiếm 1/3 nguyên nhân tử vong trên thế giới và đang góp phần gia tăng gánh nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ cao của bệnh tim mạch và ngày càng trở thành vấn đề sức khoẻ toàn cầu do tỷ lệ ngày càng gia tăng của nó. Các yếu tố nguy cơ của lối sống như lười vận động, ăn không hợp lí với chế độ ăn quá nhiều chất béo, ăn mặn, hút thuốc lá. là những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng gánh nặng này. Tăng huyết áp ảnh hưởng đến khoảng 1,5 tỷ người trên toàn thế giới. Việc tuân thủ điều trị phù hợp của bệnh nhân tăng huyết áp sẽ giúp huyết áp được kiểm soát và giảm tối đa nguy cơ tim mạch. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và mối liên hệ giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú. Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện với 350 bệnh nhân tăng huyết áp. Phỏng vấn với bộ câu hỏi soạn sẵn gồm 18 câu. Huyết áp được ghi nhận sau 3 lần tái khám. Khảo sát mối liên hệ giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp bằng phép kiểm chi bình phương. Kết quả: Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp là 69,4%. Tỉ lệ bệnh nhân có chế độ ăn mặn cần điều điều chỉnh là 51,7%; Tỉ lệ có vòng bụng đạt yêu cầu là 36,9%; 22,6% bệnh nhân cần hạn chế rượu bia; 17,4% bệnh nhân cần bỏ thuốc lá; Tăng cường hoạt động thể lực chiếm tỉ lệ 60%. Tỉ lệ kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp là 46%. Có mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với các yếu tố: tuổi và có bệnh Đái tháo đường, Suy thận kèm theo (p<0,05). Có mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc với các yếu tố: tuổi, thời gian điều trị tăng huyết áp và có bệnh đái tháo đường kèm theo (p<0,05). Không tìm thấy mối liên quan giữa tuân thủ dùng thuốc với kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp (p>0,05). Kết luận: Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, kèm bệnh đái tháo đường hay suy thận kiểm soát huyết áp thấp hơn.Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, thời gian điều trị trên 5 năm và kèm bệnh đái tháo đường có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao hơn.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  96 KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA SỰ TUÂN THỦ DÙNG THUỐC   VÀ KIỂM SOÁT HUYẾT ÁP Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP   ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ  Nguyễn Thị Mỹ Hạnh*, Nguyễn Thị Mỹ Duyên*, Lý Huy Khanh*, Nguyễn Thị Tươi*, Hồ Thị Thanh Vân*,  Trương Thị Thu Hà*, Phạm Thị Ngọc Lụa*, Huỳnh Thị Lệ Thu*   TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Bệnh tim mạch chiếm 1/3 nguyên nhân tử vong trên thế giới và đang góp phần gia tăng gánh  nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ cao của bệnh tim mạch và ngày càng trở thành vấn  đề sức khoẻ toàn cầu do tỷ lệ ngày càng gia tăng của nó. Các yếu tố nguy cơ của lối sống như lười vận động, ăn  không hợp lí với chế độ ăn quá nhiều chất béo, ăn mặn, hút thuốc lá... là những nguyên nhân dẫn đến sự gia  tăng gánh nặng này. Tăng huyết áp ảnh hưởng đến khoảng 1,5 tỷ người trên toàn thế giới. Việc tuân thủ điều  trị phù hợp của bệnh nhân tăng huyết áp sẽ giúp huyết áp được kiểm soát và giảm tối đa nguy cơ tim mạch.  Mục tiêu: Xác định tỉ lệ một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và mối liên hệ giữa sự tuân thủ dùng  thuốc và kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú.  Phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện với 350 bệnh nhân tăng huyết áp.  Phỏng vấn với bộ câu hỏi soạn sẵn gồm 18 câu. Huyết áp được ghi nhận sau 3 lần tái khám. Khảo sát mối liên hệ  giữa sự tuân thủ dùng thuốc và kiểm soát huyết áp bằng phép kiểm chi bình phương.  Kết quả: Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp là 69,4%. Tỉ lệ bệnh nhân có chế độ ăn  mặn cần điều điều chỉnh là 51,7%; Tỉ lệ có vòng bụng đạt yêu cầu là 36,9%; 22,6% bệnh nhân cần hạn chế rượu  bia; 17,4% bệnh nhân cần bỏ thuốc lá; Tăng cường hoạt động thể lực chiếm tỉ lệ 60%. Tỉ lệ kiểm soát huyết áp  của bệnh nhân tăng huyết áp là 46%. Có mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với các yếu tố: tuổi và có bệnh  Đái tháo đường, Suy thận kèm theo (p<0,05). Có mối liên quan giữa sự tuân thủ dùng thuốc với các yếu tố: tuổi,  thời gian điều trị tăng huyết áp và có bệnh đái tháo đường kèm theo (p<0,05). Không tìm thấy mối liên quan giữa  tuân thủ dùng thuốc với kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp (p>0,05).   Kết luận: Bệnh nhân ≥ 60 tuổi, kèm bệnh đái tháo đường hay suy thận kiểm soát huyết áp thấp hơn.Bệnh  nhân ≥ 60 tuổi, thời gian điều trị trên 5 năm và kèm bệnh đái tháo đường có tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc cao hơn.  Từ khóa: Tuân thủ dùng thuốc, yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp, kiểm soát huyết áp.  ABSTRACT  ASSESSING THE RELATIONSHIP BETWEEN MEDICATION COMPLIANCE   AND CONTROLLED BLOOD PRESSURE IN OUTPATIENTS DIAGNOSED   WITH HYPERTENSION   Nguyen Thi My Hanh *, Nguyen Thi My Duyen, Ly Huy Khanh, Nguyen Thi Tuoi, Ho Thi Thanh Van,  Truong Thi Thu Ha, Pham Thi Ngoc Lua, Huynh Thi Le Thu   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 96 - 102  Background:  One‐third  of  global  deaths  is  attributed  to  cardiovascular  disease  and  is  a  leading  and  increasing contributor  to  the global disease burden. Hypertension  is already a highly prevalent  risk  factor  for  * Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương  Tác giả liên lạc: Ths.ĐD Nguyễn Thị Mỹ Hạnh  ĐT: 0908467805  Email: cnddhanh@yahoo.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  97 cardiovascular disease. It is becoming an increasingly common health problem worldwide because of increasing  longevity  and  prevalence  of  contributing  factors. Many  unhealthy  lifestyle  habits  can  raise  risk  factors  for  hypertension  including: Lack of physical activity, eating  too much sodium, smoking, etc. Hypertension affects  about 1.5 billion persons worldwide. Compliance to appropriate medical therapy for hypertension can result in  controlled blood pressure and reduction in adverse outcomes.  Objective: To determine  the rate of risk  factors  for hypertension and  the relationship between medication  compliance and controlled blood pressure in outpatients diagnosed with hypertension.  Method: A cross‐sectional, descriptive study was conducted with 350 hypertensive patients. The researcher  used a questionnaire with total of 18 questions. Three blood pressure measures were taken after patients being  maintained their medication. Determine the relationship between these variables by the Chi squared test.  Results: The rate of patients with medication compliance was 69.4%;  the rate of patients with eating  too  much sodium was 51.7%; the rate of not high‐risk waist circumference was 36.9%; 22.6% patients need to limit  their alcohol consumption; 17.4% patients should stop smoking; the rate of patients with regular, moderate‐to‐ vigorous  physical  activity  was  60%.  46%  patients  with  controlled  hypertensives.  There  were  significant  differences  between  controlled  blood  pressure  with  age  and  patients  have  diabetes  or  kidney  failure  disease  (p<0,05). Age, treatment time and patients have diabetes was significant relationship of medication compliance  (p<0.05).  Between  medication  compliance  and  controlled  hypertensives  showed  no  significant  relationship  (p>0.05).   Conclusion: Patients who were  ≥ 60 years of age and who has diabetes or kidney  failure disease  showed  worse  controlled hypertensives. Patients who were  ≥ 60 years  of  age, who has  taken blood pressure‐lowering  medication for over 5 years and who has diabetes reported high medication compliance.   Keywords: Medication compliance, risk factors of hypertension, controlled blood pressure.   ĐẶT VẤN ĐỀ  Bệnh  tim mạch  chiếm  1/3  nguyên  nhân  tử  vong  trên  thế giới và  đang góp phần gia  tăng  gánh nặng bệnh tật trên thế giới. Tăng huyết áp  là  yếu  tố  nguy  cơ  cao  của  bệnh  tim mạch  và  ngày càng  trở  thành vấn đề  sức khoẻ  toàn cầu  do  tỷ  lệ ngày càng gia  tăng của nó. Các yếu  tố  nguy  cơ  của  lối  sống  như  lười  vận  động,  ăn  không hợp lí với chế độ ăn quá nhiều chất béo,  ăn mặn, hút  thuốc  lá...  là những nguyên nhân  dẫn đến sự gia tăng gánh nặng này(16).  Theo các nhà nghiên cứu, năm 2000 tần suất  lưu hành toàn cầu của tăng huyết áp trong dân  số những người trưởng thành là 25%, tương ứng  với khoảng 972  triệu người  tăng huyết áp  trên  toàn  thế giới. Ước  tính  đến năm  2025  tần  suất  lưu hành  toàn cầu của  tăng huyết áp  ở những  người  trưởng  thành  sẽ  là  29%,  tức  là  sẽ  có  khoảng  1,56  tỉ  người  bệnh  tăng  huyết  áp  trên  toàn  thế  giới(5). Mặc  dù  y  giới  đã  có  nhiều  cố  gắng  để  cải  thiện  điều  trị  tăng  huyết  áp,  tỉ  lệ  kiểm  soát huyết  áp  trên  thực  tế vẫn  chưa  cao.  Ngay  tại Hoa Kỳ, các con số  thống kê gần đây  cho thấy tỉ  lệ kiểm soát huyết áp (< 140/90 mm  Hg)  tuy  có  tăng  nhưng  cũng  không  vượt  quá  70%. Tại Việt Nam,  thống  kê  năm  2007  có  tới  gần 70% không biết bị  tăng huyết áp,  trong  số  bệnh  nhân  biết  bị  tăng  huyết  áp  chỉ  có  11,5%  được điều  trị và chỉ có khoảng 19% được kiểm  soát huyết áp  đạt yêu  cầu(16). Tăng huyết áp  là  bệnh mãn  tính,  không  tuân  thủ  chế  độ  dùng  thuốc là một trong các nguyên nhân quan trọng  gây ra huyết áp khó kiểm soát(7).   Tại  khoa  Khám  Bệnh  Bệnh  viện  Cấp  cứu  Trưng Vương năm 2012  có khoảng 70.000  lượt  bệnh nhân khám bệnh được điều trị dùng thuốc  với  chẩn  đoán  tăng huyết áp. Đề  tài  thực hiện  khảo  sát về  sự  tuân  thủ dùng  thuốc  cũng như  mức độ kiểm soát huyết áp của bệnh nhân tăng  huyết áp đang điều trị.   Mục tiêu nghiên cứu  Xác  định  tỉ  lệ  tuân  thủ dùng  thuốc,  kiểm  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  98 soát  huyết  áp  và một  số  yếu  tố  nguy  cơ  của  bệnh tăng huyết áp.  Xác định mối liên quan giữa tuân thủ dùng  thuốc với kiểm soát huyết áp.  ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Những bệnh nhân tăng huyết áp điều trị tại  khoa  Khám  bệnh,  Bệnh  viện  Cấp  cứu  Trưng  Vương TP Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian  từ tháng 1/2013 đến tháng 06/2013.  Tiêu chuẩn chọn mẫu  Bệnh nhân đã điều  trị ngoại  trú bệnh Tăng  huyết  áp  tối  thiểu  3  đợt  và  30  ngày  tại  khoa  Khám bệnh Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương.   Có khả năng hiểu và  trả  lời câu hỏi phỏng  vấn.  Đồng ý tham gia phỏng vấn sau khi đã được  giải thích mục đích nghiên cứu  Tiêu chuẩn loại trừ  Bệnh  nhân  đang  điều  trị  bệnh  cấp  tính  có  ảnh hưởng đến huyết áp  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu cắt ngang mô tả.  Cách chọn mẫu  Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống   Các biến số cần thu thập  Sử dụng  bộ  câu  hỏi  phỏng  vấn  có  18  câu.  Gồm  4  phần:  Thông  tin  cá  nhân  gồm  5  câu;  Khảo sát lối sống có 5 câu; Thang đo sự tuân thủ  dùng thuốc của bệnh nhân tăng huyết áp gồm 8  biến số, sử dụng công cụ thang đo sự tuân thủ  dùng  thuốc  của  tác giả Morisky(13). Ghi nhận 3  lần kết quả huyết áp sau khi tái khám.  Phân tích số liệu  Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.  Khảo sát mối liên hệ giữa các biến số bằng phép  kiểm chi bình phương và OR với khoảng tin cậy  95%, α = 0,05. Kiểm định được xem là có ý nghĩa  thống kê với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.  KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN  Đặc  điểm  cá  nhân  của  bệnh  nhân  tăng  huyết áp  Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thực  hiện khảo sát 350 bệnh nhân tăng huyết áp. Về  đặc điểm cá nhân, nhóm  trên 60  tuổi chiếm  tỉ  lệ cao nhất (48,3%). Số lượng bệnh nhân có độ  tuổi  trên 50  là đa số  (84,9%). Số  liệu này phù  hợp với số  liệu báo cáo của khoa Khám Bệnh  Bệnh viện Cấp Cứu Trưng Vương năm  2012.  Như  vậy  tuổi  của  bệnh  nhân  tăng  huyết  áp  trong nhóm nghiên cứu  đa  số  là  trên 50  tuổi,  điều  này  phù  hợp  với  khuyến  cáo  về  chẩn  đoán và điều trị tăng huyết áp ở ngưởi lớn của  hội Tim mạch Việt Nam  là nguy cơ bệnh  tim  mạch ở các đối tượng trên 55 tuổi(7).   Số  lượng  bệnh  nhân  nữ  (56%)  nhiều  hơn  bệnh nhân nam (44%), tỉ  lệ nữ/nam  là 1,27. Kết  quả này phù hợp với số  liệu báo cáo của khoa  Khám Bệnh Bệnh viện Cấp  cứu Trưng Vương  năm 2012 và một  số nghiên  cứu khác  của Việt  Nam(2,5,7,11).   Nhóm  bệnh  nhân  có  trình  độ  Phổ  thông  trung học  trở  lên chiếm đa số có  tỉ  lệ 58,9% có  khả năng có  thể  tiếp  thu những hướng dẫn,  tư  vấn về điều trị bệnh.  Những bệnh nhân có thời gian điều trị tăng  huyết áp từ 3 năm  trở  lên có  tỉ  lệ chiếm 79,1%.  Số lượng bệnh nhân chấp nhận điều trị thời gian  dài  chiếm  tỉ  lệ  cao  trong những bệnh nhân  tái  khám liên tục 3 lần.  Tỉ lệ bệnh nhân tăng huyết áp có bệnh kèm  Đái  tháo  đường  chiếm  tỉ  lệ 26,9%  cao hơn  so  với  nghiên  cứu  tương  tự  thực  hiện  năm  2009(11). Số lượng bệnh nhân tăng huyết áp gặp  ở người đái  tháo đường nhiều gấp đôi so với  người  không  bị  đái  tháo  đường(7). Tỉ  lệ  bệnh  nhân  tăng  huyết  áp  có  bệnh  kèm  suy  thận  chiếm  7,7%.  Tăng  huyết  áp  là  yếu  tố  quyết  định  quan  trọng  sự  suy  giảm  tốc  độ  lọc  cầu  thận theo tuổi và điều này trở nên ý nghĩa và  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  99 quan trọng ở bệnh nhân suy thận(7). Đích huyết  áp  tối  ưu  hạ  thấp  hơn  ở  có  bệnh  đái  tháo  đường hoặc bệnh thận mạn kèm theo sẽ giảm  biến cố tim mạch nhiều hơn.  Bảng 1 Đặc điểm cá nhân của nhóm nghiên cứu  (n=350)  Đặc điểm cá nhân Tần suất Tỉ lệ Tuổi 18 - 39 11 3,1% 40 - 49 42 12% 50 - 59 128 36,6% ≥ 60 169 48,3% Giới tính Nam 154 44% Nữ 196 56% Trình độ học vấn ≤ Tiểu học 53 15,1% Trung học CS 91 26% Phổ thông TH 140 40% Đại học 66 18,9% Thời gian điều trị tăng huyết áp < 1 năm 26 7,4% 1 – 2 năm 47 13,4% 3 – 4 năm 82 23,4% ≥ 5 năm 195 55,7% Bệnh kèm theo Đái tháo đường 94 26,9% Suy thận 27 7,7 Tỉ lệ tuân thủ dùng thuốc, kiểm soát huyết  áp và một số yếu tố nguy cơ của bệnh tăng  huyết áp   Có đến 51,7% bệnh nhân có chế độ ăn mặn.  Ăn mặn là 1 yếu tố góp phần làm tăng huyết áp.  Ăn giảm muối  sẽ góp phần giảm huyết  áp và  làm tăng tác dụng hạ áp của thuốc(7). Như vậy tỉ  lệ người bệnh có chế độ ăn mặn còn cao cần phải  có nhiều biện pháp để hạ thấp tỉ lệ bệnh nhân có  chế độ ăn mặn. Trong khi đó còn đến 63,1% tổng  số bệnh nhân có vòng bụng không đạt yêu cầu.  Thừa mỡ trong cơ thể góp phần làm tăng huyết  áp(7). Như  vậy  tỉ  lệ  người  bệnh  có  vòng  bụng  không đạt yêu cầu của bệnh nhân tăng huyết áp  còn  rất  thấp  cần  phải  có  nhiều  biện  pháp  để  nâng cao  tỉ  lệ bệnh nhân đạt yêu cầu khi vòng  bụng dưới 90cm ở nam và dưới 80cm ở nữ giúp  người bệnh kiểm soát huyết áp và giảm nguy cơ  biến  chứng  bệnh  tim  mạch(1).  Có  22,6%  bệnh  nhân cần hạn chế rượu bia. Uống rượu bia nhiều  làm tăng nguy cơ đột quỵ và giảm tác dụng của  1 số thuốc hạ áp. Uống rượu bia lượng nhỏ đến  mức  giới  hạn  có  tác  dụng  chống  bệnh mạch  vành(7,21). Số  lượng bệnh nhân còn hút  thuốc  lá  chiếm  tỉ  lệ 17,4%. Bỏ hút  thuốc  lá  là biện pháp  mạnh mẽ nhất để đề phòng các bệnh tim mạch  và ngoài tim mạch những người bỏ hút thuốc lá  trước tuổi trung niên có tuổi thọ không khác với  những người cả đời không hút  thuốc. Thuốc  lá  làm giảm tác dụng của 1 số thuốc điều trị bệnh  tăng huyết áp(7,21). 40% số  lượng bệnh nhân cần  tăng cường hoạt động thể lực. Tập thể dục có tác  dụng  tốt  nhất  là  ở  người  có  lối  sống  tĩnh  tại.  Hình  thức  thể dục nào  cũng  được nhưng  cách  tập  tích  cực  có hiệu quả phòng bệnh hơn. Tác  dụng bảo vệ mất khi ngừng tập thể dục(7). Mức  độ tập luyện phải tùy thuộc vào tình trạng bệnh  tật  của bệnh nhân. Tăng  cường hoạt  động  thể  lực ở mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ hoặc vận  động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30‐60  phút mỗi ngày(1). Hiệu quả chống tăng huyết áp  mang  lại  từ điều chỉnh  lối  sống hữu hiệu  thay  đổi tùy theo sự tuân thủ của bệnh nhân với liệu  pháp. Khi  tuân  thủ  tối  ưu,  huyết  áp  tối  thiểu  giảm>10 mmHg. Biện pháp điều chỉnh  lối sống  được  đề nghị cho  tất cả bệnh nhân  tăng huyết  áp, vì trên các nghiên cứu quần thể dài hạn, quy  mô lớn cho thấy ngay huyết áp giảm ít cũng làm  giảm nguy cơ mắc bệnh  tim mạch. Vì vậy, bất  chấp mức huyết áp  thế nào,  tất cả các cá nhân  cần phải  lựa chọn điều chỉnh  lối sống phù hợp  cho mình. Hơn nữa, không giống như liệu pháp  dùng  thuốc có  thể gây  tác dụng ngoài ý muốn  và  giảm  chất  lượng  sống  trong  một  số  bệnh  nhân,  liệu pháp không dùng  thuốc không gây  các  ảnh  hưởng  có  hại mà  còn  giúp  cảm  thấy  khỏe hơn cho bệnh nhân và ít tốn kém(1,7).  Tỉ lệ kiểm soát huyết áp là 46% cao hơn so  với  nghiên  cứu  thực  hiện  tại  Braxin  chỉ  có  34%(15) và của tác giả Zeller thực hiện tại Anh tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết  áp  của  bệnh  nhân  tăng  huyết  áp  là  32%(22).  Tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết  áp  thấp  hơn  so  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Krousel‐Wood  thực  hiện  tại  Mỹ  có  tỉ  lệ  66,3%(10). Trong  khi  đó  tại Việt Nam,  theo  số  liệu  điều  tra  tại  các  tỉnh  phía Bắc  năm  2001‐ 2002,  tỉ  lệ bệnh nhân  có huyết  áp  được kiểm  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013  100 soát/số người được điều trị ở nhóm tuổi ≥ 65 là  9,5%(5). Phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lý  Huy Khanh ở dân số chung, tỉ lệ đạt huyết áp  mục tiêu  là 40,4%(11). Theo JNC 7 của Hoa Kỳ,  một  trong  những  nguyên  nhân  chính  khiến  cho tỉ  lệ kiểm soát được huyết áp trên thực tế  còn  chưa  cao  là  sự  trì  trệ  lâm  sàng  (clinical  inertia)  của  thầy  thuốc,  tức  là  thầy  thuốc  không chịu  thay đổi điều  trị dù biết huyết áp  bệnh nhân  chưa  được  kiểm  soát(5). Mặc dù  y  giới đã có nhiều cố gắng để cải  thiện điều  trị  tăng  huyết  áp,  tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết  áp  trên  thực tế vẫn chưa cao. Ngay tại Hoa Kỳ, các con  số  thống kê gần  đây  cho  thấy  tỉ  lệ kiểm  soát  huyết áp (<140/90 mm Hg) tuy có tăng nhưng  cũng không vượt quá 70%(5). Kiểm soát huyết  áp là yếu tố rất quan trọng nhất trong điều trị  tăng huyết áp. Do vậy khi huyết áp chưa đạt  mục  tiêu và kiểm soát được  thì vẫn  là yếu  tố  nguy cơ cao dẫn đến các biến chứng của bệnh  là rất  lớn. Ở Việt Nam, do  thói quen và quan  niệm của người dân chỉ đi khám bệnh khi thấy  trong người khó chịu, khi đã bị biến chứng của  bệnh. Trong khi đó bệnh tăng huyết áp là bệnh  mạn  tính, diễn biến  thầm  lặng,  ít  triệu chứng  lâm sàng, nên số  ít người bị  tăng huyết áp đi  khám bệnh vì thấy người khó chịu, nhiều bệnh  nhân khi bị  các  tai biến  của bệnh mới biết bị  bệnh  tăng  huyết  áp.  Tăng  huyết  áp  không  được điều  trị và kiểm soát  tốt sẽ dẫn đến  tổn  thương nặng các cơ quan đích và gây các biến  chứng nguy hiểm như tai biến mạch não, nhồi  máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ,  suy  tim,  suy  thận    thậm  chí  dẫn  đến  tử  vong(1).  Tỉ  lệ tuân thủ dùng  thuốc  là 69,4% cao hơn  với  các  khảo  sát  về  sự  tuân  thủ  điều  trị  bệnh  tăng huyết áp  thực hiện  tại  thành phố Hồ Chí  Minh  năm  2005  cho  thấy  tỉ  lệ  nhỏ  hơn  50%(2).  Phù  hợp  với  nghiên  cứu  thực  hiện  tại  Washington (Mỹ) của tác giả Gatti(3). Cao hơn tỉ  lệ tuân thủ dùng thuốc thực hiện tại khoa Khám  bệnh năm 2011 chỉ có 49,5%. Theo Bùi Nguyễn  Kiểm  thì  chỉ  có  một  nửa  số  bệnh  nhân  tăng  huyết  áp  tuân  thủ điều  trị. Lý do  thất bại bao  gồm không phát hiện sớm bệnh tăng huyết áp,  sự  tuân  thủ  không  hoàn  toàn  của  bệnh  nhân,  thiếu  sự  hướng  dẫn  của  thầy  thuốc  và  thiếu  những liệu pháp đầy đủ để kiểm soát huyết áp.  Theo  tài  liệu khuyến  cáo  của Tổ  chức Y  tế  thế  giới  (WHO)  về  sự  tuân  thủ  điều  trị  của  bệnh  tăng huyết áp thì tỉ  lệ tuân  thủ dao động  từ 50  đến  70%(21).  Theo  nghiên  cứu  dạng  phân  tích  tổng hợp  của  Jing  Jin và  cộng  sự  thì  ở những  bệnh nhân tăng huyết áp, sự kém tuân thủ điều  trị là lý do quan trọng nhất của việc không kiểm  soát  được huyết  áp dẫn  đến gia  tăng nguy  cơ  của đột quỵ, nhồi máu cơ tim và suy thận(8).  Bảng 2 Kết quả về kiểm soát huyết áp và sự tuân thủ  dùng thuốc  Nội dung Tần suất Tỉ lệ Kiểm soát huyết áp Kiểm soát huyết áp 161 46% Chưa kiểm soát huyết áp 189 54% Tuân thủ dùng thuốc Tuân thủ dùng thuốc 243 69,4% Chưa tuân thủ 107 30,6% Mối liên quan giữa kiểm soát huyết áp với  tuân  thủ dùng  thuốc và đặc điểm cá nhân  của bệnh nhân tăng huyết áp   Nhóm  bệnh  nhân  có  độ  tuổi  ≥  60  có  tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết  áp  thấp  hơn  các  nhóm  có  độ  tuổi  còn  lại.  Sự  khác  biệt  này mang  ý  nghĩa  thống kê  (p<0,05). Phù hợp với số  liệu điều  tra  tại  các  tỉnh phía Bắc năm 2001‐2002,  tỉ  lệ bệnh  nhân có huyết áp được kiểm soát/số người được  điều trị ở nhóm tuổi ≥ 65 rất thấp chỉ có 9,5%(5).  Không phù hợp với nghiên  cứu  của  Stockwell  cho rằng không không có sự liên hệ giữa yếu tố  tuổi với kiểm soát huyết áp, ông cho rằng chỉ có  sự  liên hệ giữa yếu  tố giới với kiểm soát huyết  áp.  Những  bệnh  nhân  nữ  có  tỉ  lệ  kiểm  soát  huyết áp cao hơn bệnh nhân nam(19). Nghiên cứu  của Morgado  không  tìm  thấy  sự  liên  hệ  giữa  kiểm soát huyết áp với yếu tố tuổi cũng như giới  tính(12). Những bệnh nhân tăng huyết áp có bệnh  kèm là đái tháo đường, suy thận tỉ lệ kiểm soát  huyết áp thấp hơn không có bệnh kèm. Sự khác  biệt này mang ý nghĩa thống kê (p<0,05). Không  phù  hợp  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lý Huy  Khanh  cho  rằng  không  có  ý  nghĩa  về  sự  liên  quan giữa đạt huyết áp mục tiêu ở những bệnh  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của S
Tài liệu liên quan