Đánh giá khả năng kiến thức, thái độ, hành vi của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân tại khoa
khám bệnh, bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai.
Đối tượng và phương pháp: Tất cả các bà mẹ có trẻ trong độ tuổi từ 1 tháng đến ≤ 15 tuổi đến khám bệnh
tại Khoa Khám Bệnh - Bệnh viện Nhi Đồng - Đồng Nai trong giờ hành chánh.Đề tài được tiến hành theo thiết kế
nghiên cứu mô tả cắt ngang. 7 giờ đến 16 giờ mỗi ngày từ tháng 5/2009 đến 11/2009.
Kết quả: Kiến thức đúng của các bà mẹ.Trẻ ói tất cả mọi thứ 24,1%; Trẻ không thể uống hoặc bú được 34%;
Trẻ co giật 71,8%; Trẻ li bì hay khó đánh thức 34,8%.Thái độ đúng của các bà mẹ.Trẻ ói tất cả mọi thứ 52,5%;
Trẻ không thể uống hoặc bú được 58,3%; Trẻ co giật 80,4%; Trẻ li bì hay khó đánh thức 56,2%. Hành vi đúng
của các bà mẹ. Trẻ ói tất cả mọi thứ 66,3%; Trẻ không thể uống hoặc bú được 74,1%; Trẻ co giật 98,5%; Trẻ li bì
hay khó đánh thức 78,9%.
Kết luận: Tổ chức triển khai tốt các chương trình “chăm sóc sức khỏe ban đầu” tới các địa phương, nhất là
những nơi vùng sâu vùng xa, dân tộc ít người đang sinh sống, các khu công nghiệp.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự hiểu biết các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân của các bà mẹ có con đến khám Bệnh viện Nhi Đồng Nai năm 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 64
KHẢO SÁT SỰ HIỂU BIẾT CÁC DẤU HIỆU NGUY HIỂM TOÀN THÂN
CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON ĐẾN KHÁM BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG NAI –
NĂM 2009
Trần Thanh Huỳnh*
TÓM TẮT
Đánh giá khả năng kiến thức, thái độ, hành vi của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân tại khoa
khám bệnh, bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai.
Đối tượng và phương pháp: Tất cả các bà mẹ có trẻ trong độ tuổi từ 1 tháng đến ≤ 15 tuổi đến khám bệnh
tại Khoa Khám Bệnh - Bệnh viện Nhi Đồng - Đồng Nai trong giờ hành chánh.Đề tài được tiến hành theo thiết kế
nghiên cứu mô tả cắt ngang. 7 giờ đến 16 giờ mỗi ngày từ tháng 5/2009 đến 11/2009.
Kết quả: Kiến thức đúng của các bà mẹ.Trẻ ói tất cả mọi thứ 24,1%; Trẻ không thể uống hoặc bú được 34%;
Trẻ co giật 71,8%; Trẻ li bì hay khó đánh thức 34,8%.Thái độ đúng của các bà mẹ.Trẻ ói tất cả mọi thứ 52,5%;
Trẻ không thể uống hoặc bú được 58,3%; Trẻ co giật 80,4%; Trẻ li bì hay khó đánh thức 56,2%. Hành vi đúng
của các bà mẹ. Trẻ ói tất cả mọi thứ 66,3%; Trẻ không thể uống hoặc bú được 74,1%; Trẻ co giật 98,5%; Trẻ li bì
hay khó đánh thức 78,9%.
Kết luận: Tổ chức triển khai tốt các chương trình “chăm sóc sức khỏe ban đầu” tới các địa phương, nhất là
những nơi vùng sâu vùng xa, dân tộc ít người đang sinh sống, các khu công nghiệp.
Từ khóa: dấu hiệu nguy hiểm, trẻ em.
ABSTRACT
THE MOTHERS’ KNOWNLEDGE OF DANGER THREATENS TO ALL OVER THEIR CHILDREN IN
MEDICAL EXAMINATION AT DONG NAI CHILDREN’S HOSPITAL
Tran Thanh Huynh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 64 - 69
An evaluation of the mothers’ knowledge, attitude and behaviour of the dangeriuos threatens to their children
at paediatrics ward of Dong Nai Children’s Hospital.
Methods:All of mothers who took their children at from 01 month old to 15 years old to a medical
examination at Dong Nai Children’s Hospital during office hours. This survey is worked out with the method of
cross-sectional description study.
Results: Mothers’ correct knowledge: Children vomit all like milk or foods covering 24.1%, can not drink or
be breast-fed or bottle-fed 34%; Children fall in convulsive fit 71.8% and fall in sound sleep then hardly to be
awakened 34.8%; Mothers’ correct attitude: Children vomit all like milk or foods getting result of 52.5%, can not
drink or be breast-fed 58.3%, fall in convulsive fit 80.4% and fall in sound sleep then hardly to be awakened
56.2%.
Mothers’ correct behaviour: Children vomit all like milk or foods obtaining 66.3%, can not drink or be breast-
fed or bottle-fed 74.1%; Children fall in convulsive fit achieving 66.3%, fall in sound sleep 78.9%.
Conclusions:“The Initial Health Care Program” should be carried out at localities; especially, at any remote
region, ethnic minority areas and industrial parks.
* Bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai
Tác giả liên lạc: ĐD Trần Thanh Huỳnh, ĐT: 0955 260 257, Email: trungnghialddn@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 65
Key words: danger threaten, children.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo ghi nhận của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) và Quỹ Trẻ em nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF), hằng năm trên thế giới có
trên 10 triệu trẻ em chết trước 5 tuổi, 70%
nguyên nhân tử vong là do phối hợp nhiều
bệnh lý khác nhau như: viêm phổi, tiêu chảy,
sởi, sốt rét và suy dinh dưỡng Tỷ lệ tử vong
của trẻ dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển
có thu nhập thấp nhiều gấp 10 lần so với các
nước công nghiệp phát triển(2).
Trong những năm gần đây, Khoa Cấp cứu
Bệnh viện Nhi Đồng - Đồng Nai tiếp nhận bệnh
nhi nặng mỗi năm mỗi nhiều hơn. Cụ thể bệnh
nhân nặng vào khoa cấp cứu năm 2006 có 11.174
bệnh nhân, 2007 có 14.638 bệnh nhân, 2008 có
15.693 bệnh nhân, 2009 có 19.631 bệnh nhân; Và
bệnh nhân tử vong ngoại viện năm 2006 có 31
bệnh nhân, 2007 có 34 bệnh nhân, 2008 có 48
bệnh nhân, 2009 có 36 bệnh nhân.
Đồng Nai là một tỉnh nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm, có nhiều khu công nghiệp với
nhiều nhà máy, nên có rất nhiều lao động nhập
cư từ nông thôn, từ các tỉnh khác. Đây là lực
lượng lao động trong độ tuổi sinh sản nên kèm
với họ là số đông trẻ em.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Khảo sát sự hiểu biết các dấu hiệu nguy hiểm
toàn thân của các bà mẹ có con đến khám Bệnh
viện Nhi Đồng - Đồng Nai.”.
Mục tiêu chung
Khảo sát sự hiểu biết các dấu hiệu nguy
hiểm toàn thân của các bà mẹ có con đến khám
Bệnh viện Nhi Đồng - Đồng Nai.
Mục tiêu cụ thể
Xác định tỷ lệ bà mẹ có kiến thức, thái độ,
hành vi đúng về dấu hiệu nguy hiểm toàn thân.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí chọn mẫu
Tất cả các bà mẹ có trẻ trong độ tuổi từ 1
tháng đến ≤ 15 tuổi đến khám bệnh tại Khoa
Khám Bệnh - Bệnh viện Nhi Đồng - Đồng Nai
trong giờ hành chánh.
Tiêu chí loại trừ
Bà mẹ đã được phỏng vấn rồi
Bà mẹ rối loạn tâm thần
Bà mẹ bệnh tật: câm điếc bẩm sinh.
Không có bà mẹ đi kèm
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Đề tài được tiến hành theo thiết kế nghiên
cứu mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu
Đề tài nghiên cứu được tính theo công thức:
n =
Z2. P(1-P)
e2
Ta có: n =
1.962 x 0.5 (1 - 0.5)
0.052 = 384
Để kết quả điều tra được mở rộng, chúng tôi
chọn cỡ mẫu (10 huyện và 1 thành phố) đơn vị.
n = 384 x 11 # 4.200 đối tượng.
Chúng tôi chọn đủ 4.200 đối tượng
Chọn mẫu
Các đối tượng được chọn vào mẫu khảo sát
theo phương pháp chọn ngẫu nhiên: cha mẹ trẻ
đến đăng ký khám bệnh theo số thứ tự 5, 10, 15,
20, trong thời gian nghiên cứu, thỏa các tiêu
chuẩn chọn bệnh và loại trừ, được đưa vào
nhóm nghiên cứu.
Đánh giá các yếu tố
Địa chỉ
Nghề nghiệp
Trình độ học vấn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 66
Kiến thức, thái độ, hành vi về dấu hiệu nguy
hiểm toàn thân (Trẻ ói tất cả mọi thứ; trẻ không
thể uống hoặc bú được; trẻ co giật; trẻ li bì hay
khó đánh thức).
Xử lý số liệu
Số liệu thu thập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 16.0 for windows.
Định nghĩa biến số
Kiến thức: những điều hiểu biết, có nhiều
kiến thức cuộc sống, không ngừng nâng cao
kiến thức cho mình.
Thái độ: mặt biểu hiện bề ngoài ý nghĩ, tình
cảm đối với ai hay việc gì, thông qua nét mặt cử
chỉ, lời nói chỉ, hành động.
Hành vi: cách ứng xử được biểu hiện bằng
cử chỉ, hành động cụ thể.
Dấu hiệu nguy hiểm toàn thân theo IMCI
(Integrated Management of Childhood Illness).
Trẻ không uống hoặc bú được: khi trẻ
không thể mút hoặc nuốt được khi cho uống
hoặc bú mẹ.
Trẻ nôn tất cả mọi thứ: khi trẻ không thể giữ
lại bất cứ thứ gì đã ăn hoặc uống.
Trẻ co giật: tay chân trẻ co cứng, trẻ có thể
mất ý thức hoặc không đáp ứng với tiếng động.
Trẻ li bì khó đánh thức: trẻ không thức hoặc
không tỉnh táo, ngủ gà gật không quan tâm đến
những gì xảy ra chung quanh.
Ý thức: sự cảm nhận và nhận biết sự vật
khách quan được phản ảnh vào bộ óc con người
Đáp ứng: đem lại đúng các yếu tố, đòi hỏi
Ngũ gà gật: ngũ ở tư thế ngồi hoặc đứng, lơ
mơ, lúc gật bên nầy, lúc gật bên kia, thỉnh
thoảng tỉnh dậy.
Kiến thức đúng: Khi trẻ có một trong các
biểu hiện như sau: trẻ không uống hoặc bú
được, hoặc trẻ nôn tất cả mọi thứ, hoặc trẻ co
giật, hoặc trẻ li bì khó đánh thức thì được gọi
là TRẺ CÓ DẤU HIỆU NGUY HIỂM TOÀN
THÂN, cha mẹ trẻ phải hiểu rằng cháu đang
bị bệnh nặng thậm chí rất nặng.
Thái độ đúng: Khi trẻ có dấu hiệu nguy
hiểm, cha mẹ trẻ phải hiểu rằng trẻ đang cần
được đưa đi khám bệnh tại các cơ sở y tế, không
được để ở nhà hoặc để theo dõi thêm vì chỉ các
cơ sở y tế đó mới có các thầy thuốc chuyên môn,
am hiểu về các dấu hiệu nguy hiểm toàn thân
cùng với các thiết bị, thuốc men cần thiết để kịp
thời khám chữa bệnh cho cháu.
Hành vi đúng: Đối với trẻ có dấu hiệu
nguy hiểm, cha mẹ trẻ phải hiểu rằng hành
động đúng đắn nhất lúc này là phải đưa ngay
trẻ đến khám bệnh kịp thời tại các cơ sở y tế.
Tuyệt đối không được chần chờ chậm trể,
tuyệt đối không được tự ý mua thuốc về điều
trị cho cháu.
KẾT QUẢ
Phân bố theo địa phương (n = 4.200)
Bảng 1: Phân bố theo địa phương
Địa phương n Tỷ lệ %
H. Thống Nhất 315 7,5%
H. Trảng Bom 590 14,0%
H. Xuân Lộc 125 3,0%
H. Cẩm Mỹ 60 1,4%
H. Long Thành 365 8,7%
H. Nhơn Trạch 44 1,0%
H. Tân Phú 38 0,9%
H. Định Quán 96 2,3%
H. Vỉnh Cửu 269 6,4%
H. Long Khánh 73 1,7%
TP. Biên Hòa 2.12 51,5%
Tỉnh khác 63 1,5%
Tổng cộng 4.20 100%
Nhận xét: đa số dân cư tại TP. Biên Hòa
2.162/4.200 chiếm tỷ lệ (51,5%)
Nghề nghiệp của các bà mẹ (n = 4.200)
Bảng 2: Nghề nghiệp của các bà mẹ
Nghề nghiệp của các bà mẹ n Tỷ lệ %
Nội trợ 1066 25,4%
Công nhân 2587 61,6%
Công chức 206 4,9%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 67
Nghề nghiệp của các bà mẹ n Tỷ lệ %
Làm nông / làm rẫy 178 4,2%
Nghề khác 163 3,9%
Tổng cộng 4200 100%
Nhận xét: Bà mẹ là công nhân 2.587/4.200
chiếm tỷ lệ (61,6%)
Trình độ học vấn của các bà mẹ (n = 4.200)
15
826
1990
1221
148
Mù chữ Cấp I Cấp II Cấp III Đại học
Biểu đồ 1: Trình độ học vấn của các bà mẹ
Nhận xét: TĐHV của bà mẹ: mù chữ (0,4%);
cấp I (19,6%); cấp II (47,4%)
Kiến thức đúng về dấu hiệu nguy hiểm
toàn thân của các bà mẹ (n = 4.200).
Bảng 3: Kiến thức đúng về dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân
Dấu hiệu nguy hiểm toàn thân n Tỷ lệ %
Trẻ ói tất cả mọi thứ 1009 24,1%
Trẻ không thể uống hoặc bú được 1430 34 %
Trẻ co giật 3018 71,8%
Kiến
thức
Trẻ li bì hay khó đánh thức 1461 34,8%
Nhận xét: Kiến thức đúng (trẻ ói tất cả mọi
thứ 24,1%, trẻ không thể uống hoặc bú được
34%, trẻ co giật 71,8%, trẻ li bì hay khó đánh
thức 34,8%).
Thái độ đúng về dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân của các bà mẹ (n = 4.200).
Bảng 3.4. Thái độ đúng về dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân
Dấu hiệu nguy hiểm toàn thân n Tỷ lệ %
Trẻ ói tất cả mọi thứ 2203 52,5%
Trẻ không thể uống hoặc bú được 2451 58,3 %
Trẻ co giật 3377 80,4%
Thái
độ
Trẻ li bì hay khó đánh thức 2360 56,2%
Nhận xét: Thái độ đúng (trẻ ói tất cả mọi thứ
52,5%, không thể uống hoặc bú được 58,3%, trẻ
co giật 80,4%, li bì hay khó đánh thức 56,2 %).
Hành vi đúng về dấu hiệu nguy hiểm
toàn thân của các bà mẹ (n = 4.200)
Bảng 5: Hành vi đúng về dấu hiệu nguy hiểm toàn
thân
Dấu hiệu nguy hiểm toàn thân n Tỷ lệ %
Trẻ ói tất cả mọi thứ 2785 66,3%
Trẻ không thể uống hoặc bú được 3112 74,1%
Trẻ co giật 4139 98,5%
Hành
vi
Trẻ li bì hay khó đánh thức 3315 78,9%
Nhận xét: Hành vi đúng (ói tất cả mọi thứ
66,3%, không thể uống hoặc bú được 74,1%, trẻ
co giật 98,5%, trẻ li bì hay khó đánh thức 78,9%).
BÀN LUẬN
Tình hình phân bố theo địa phương
Thành phố Biên Hòa đã chiếm tỷ lệ rất cao
51,5 nghiên cứu 4.200 mẫu, kế đến là các huyện
lân cận chung quanh thành phố Biên Hòa như:
huyện Trảng Bom 14%, huyện Long Thành
chiếm tỷ lệ 8,7%, huyện Thống Nhất chiếm tỷ lệ
7,5%, huyện Vĩnh Cửu chiếm tỷ lệ 6,4%...
Ở những nơi vùng sâu vùng xa, nhất là
vùng các dân tộc ít người đang sinh sống như ở
các xã như Tà Lài của huyện Tân Phú, có
nhiều trường hợp trẻ đến cơ sở y tế chậm trễ
một phần do đường sá xa xôi, giao thông cách
trở bất tiện, nhưng phần lớn do ba mẹ hoặc
người chăm sóc trẻ không biết được đâu là
những dấu hiệu nặng báo động đưa cháu bé kịp
thời đến cơ sở y tế.
Nghề nghiệp và trình độ học vấn của các
bà mẹ
Kết quả ghi nhận được nghề nghiệp các bà
mẹ: nội trợ 25,4%; công nhân 61,6%; công chức
4,9%; làm nông / làm rẫy 4,2% và nghề khác
3,9%. Đồng Nai là tỉnh có rất nhiều khu công
nghiệp và nhiều nhà máy đang hoạt động (hiện
có 29 khu công nghiệp đang hoạt động với hơn
335.000 công nhân đang lao động trong hơn 700
nhà máy). Trong lực lượng lao động đó có rất
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 68
nhiều các ông bố bà mẹ trong độ tuổi sinh sản
đang làm việc, với kết quả chúng tôi thấy cha
mẹ là công nhân 61,6%.
TĐHV của các bà mẹ cho ta thấy hiện nay
các bậc cha mẹ không biết chữ chiếm tỷ lệ 0,4%,
cấp I chiếm tỷ lệ 19,7%, cấp II chiếm tỷ lệ 47,4%,
như vậy các bà mẹ mù chữ, cấp I và cấp II chiếm
tổng tỷ lệ 67,5% một tỷ lệ khá cao so với tổng số
các bà mẹ được phỏng vấn. Một vấn đề hiển
nhiên cần thiết là các bà mẹ cũng cần có TĐHV
tương đối để khi có các cuộc tuyên truyền về
CSSKBĐ trên các phương tiện thông tin hoặc
qua các sách báo. Song do khách quan, tỷ lệ các
bà mẹ có TĐHV còn thấp chiếm tỷ lệ rất lớn (mù
chữ, cấp I và cấp II là 67,5%).
Kiến thức của các bà mẹ về các dấu hiệu
nguy hiểm toàn thân
Với kết quả của chúng tôi, do sự nhận thức
còn tương đối thấp của các bậc cha mẹ về tình
trạng bệnh của trẻ như: trẻ ói tất cả mọi thứ
đúng 24,1%; trẻ không thể uống hoặc bú được
đúng 34%; trẻ li bì hay khó đánh thức đúng
34,8% hoặc sự chủ quan của gia đình, ảnh
hưởng rất quan trọng trong việc phát hiện bệnh
ở trẻ và có khi làm trẻ nặng thêm.
Kiến thức nói chung và kiến thức về trẻ có
dấu hiệu nguy hiểm toàn thân của bậc cha mẹ
rất cần thiết trong việc phát hiện bệnh ở trẻ,
cũng như việc theo dõi và chăm sóc ban đầu là
hết sức quan trọng.
Thái độ của các bà mẹ về các dấu hiệu nguy
hiểm toàn thân
Các dấu hiệu bệnh nặng theo IMCI với thái
độ đúng của các bà mẹ hoặc người thân trong
gia đình rất quan trọng trong việc xử lý tại nhà
cũng như đem trẻ đến sớm các cơ sở y tế. Kết
quả nghiên cứu cho thấy thái độ đúng của bà
mẹ đạt tương đối như: trẻ ói tất cả mọi thứ
52,5%; trẻ không thể uống hoặc bú được 58,3%
và trẻ li bì khó đánh thức 56,2%. Khi trẻ trẻ có
dấu hiệu nguy hiểm toàn thân, thái độ đúng của
cha mẹ là yếu tố rất quan trọng trong quá trình
điều trị cho trẻ cũng như chăm sóc trẻ khi bị
bệnh.
Hành vi của các bà mẹ về các dấu hiệu
nguy hiểm toàn thân
Hành vi đúng của các bà mẹ: về trẻ ói tất cả
mọi thứ 66,3%; trẻ không thể uống hoặc bú được
74,1%; trẻ li bì hay khó đánh thức 78,9%, nhưng
hiện nay một số các bậc cha mẹ rất chủ quan cho
là bệnh đơn giản, trẻ bệnh tự đi mua thuốc cho
trẻ uống đến khi trẻ nặng đem đến bệnh viện
thường quá trễ có khi bệnh nhân đã tử vong.
Điều cần thiết nhất là mỗi phụ huynh nên trang
bị những kiến thức cơ bản về bệnh để từ đó có
cách chăm sóc và điều trị đúng hướng.
KẾT LUẬN
Kiến thức đúng của các bà mẹ
Trẻ ói tất cả mọi thứ 24,1%; Trẻ không thể
uống hoặc bú được 34%; Trẻ co giật 71,8%; Trẻ li
bì hay khó đánh thức 34,8%.
Thái độ đúng của các bà mẹ
Trẻ ói tất cả mọi thứ 52,5%; Trẻ không thể
uống hoặc bú được 58,3%; Trẻ co giật 80,4%; Trẻ
li bì hay khó đánh thức 56,2%.
Hành vi đúng của các bà mẹ
Trẻ ói tất cả mọi thứ 66,3%; Trẻ không thể
uống hoặc bú được 74,1%;
Trẻ co giật 98,5%; Trẻ li bì hay khó đánh
thức 78,9%.
KIẾN NGHỊ
Đối với cộng đồng
Cần có sự phối hợp giửa ngành Y tế với các
ngành khác nhất là 2 ngành Giáo dục và Văn
hoá trong việc truyền bá kiến thức y tế.
Cần có sự hổ trợ của các tổ chức đoàn thể
(Đoàn Thanh Niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân) và các phương tiện thông tin đại chúng
như báo chí, phát thanh truyền hình vì đây là
các phương tiện đóng vai trò quan trọng trong
việc phổ biến kiến thức y tế cho cộng đồng.
Đưa các chương trình y tế cơ bản, chăm sóc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 69
sức khoẻ ban đầu vào các nơi như nhà trẻ,
trường mẫu giáo, trường tiểu học.
Ngành Y tế kết hợp với tổ chức Công đoàn
đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục công tác chăm
sóc sức khoẻ ban đầu đến tận các nhà máy, xí
nghiệp nơi có các công nhân trong độ tuổi sinh
sản đang làm việc.
Thành lập đường dây nóng về kiến thức y tế
cơ bản và chăm sóc sức khỏe ban đầu đồng thời
dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp để
phổ biến càng rộng rãi càng tốt số điện thoại của
đường dây này tới cộng đồng.
Đối với mạng lưới y tế:
Ngành Y tế cần thường xuyên có các chương
trình tuyên truyền giáo dục y tế cộng đồng trên
các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài
phát thanh truyền hình, mạng truyền thanh
phường xã) bằng các phóng sự, hình ảnh, các
bài viết; bằng các bài nói, các buổi toạ đàm, các
buổi giải đáp thắc mắc của cán bộ y tế về các
chương trình hướng dẫn cách chăm sóc trẻ như:
cách cặp nhiệt độ cho trẻ và cách xử lý tại nhà
khi trẻ sốt cao, cách cho uống bù nước khi trẻ bị
tiêu chảy..
Thông qua các buổi họp hội đồng người
bệnh, thông qua những lần BS tư vấn trực tiếp
về kiến thức y tế cho các bà mẹ lúc trẻ đang nằm
viện hoặc lúc đang khám bệnh cho trẻ
Thông qua các tranh cổ động, bảng hướng
dẫn, bài viếtđược treo tại các khoa phòng, khu
khám bệnh., thông qua các phim tài liệu
hướng dẫn chăm sóc trẻ được chiếu tại khu
khám bệnh và các khoa phòng
Thông qua những bài viết nhỏ dễ hiểu dễ
nhớ về cách phát hiện bệnh và cách chăm sóc
khi trẻ bệnh được in trong sổ khám bệnh của
bệnh nhân.
Đây cũng là một kênh tuyên truyền giáo
dục về kiến thức y tế rất hiệu quả bởi vì sau
khi xuất viện, chính các bà mẹ sẽ là những
tuyên truyền viên tích cực trong việc phổ biến
những kiến thức tiếp thu được từ các y bác sỹ,
các cán bộ y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y Tế Việt Nam – WHO – UNICEF (2003), “Tài liệu hướng dẫn xử
trí lồng ghép các bệnh thường gặp ở trẻ em” năm 2003.
2. Bộ Y tế, “XỬ TRÍ LỒNG GHÉP các bệnh thường gặp ở trẻ em ”
(2003), Nhà xuất bản Y học - Nhi khoa IV “Chăm sóc sức khoẻ
ban đầu”, tr. 99 -105
3. Bùi Bỉnh Bảo Sơn (2009), “ Đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi đối
với bệnh co giật ” Y Học Việt Nam số 02 năm 2009, tr. 157-166.
4. Hồ Viết Hiếu (2009) “Sự hiểu biết của các bà mẹ về 4 dấu hiệu bệnh
năng theo IMCI tại xã Hương Hồ “ Y Học Việt Nam số 02 năm 2009,
tr. 211- 220.
5. Lê Minh Khôi (2008) “Khi chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, bạn cần biết
một số dấu hiệu bệnh nặng, ngay lúc này việc cần làm là đưa đến bệnh
viện”, Đại học Đà Nẵng 19/12/2008 (Internet).
6. Nguyễn Thị Hương, Đặng Thị Hồng Khánh (2010) “ Đánh giá kiến
thức, thái độ chăm sóc bệnh nhân co giật do sốt cao của thân nhân”
Khoa cấp cứu và Khoa Thần kinh Bệnh viện Nhi Trung Ương, Hội
nghi khoa học Điều dưỡng Nhi toàn quốc lần VI, tháng 3 năm 2010,
tr.162-166.