Khảo sát tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước

Mục tiêu: Nghiên cứu sự thay đổi tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực hiện tại Bệnh viện Mắt TPHCM từ 1/1/2010 đến 30/9/2010, gồm 23 bệnh nhân viêm màng bồ đào trước 1 mắt được thăm khám và điều trị, phân tích tế bào nội mô giác mạc bằng máy đếm tế bào nội mô Topcon SP-2000P. Kết quả đếm tế bào nội mô ở mắt viêm màng bồ đào trước được so sánh với mắt lành cùng bệnh nhân và phân tích sự thay đổi sau khi viêm màng bồ đào trước lui bệnh. Kết quả: mẫu nghiên cứu gồm 23 mắt viêm màng bồ đào trước vô căn với sự xuất hiện lắng đọng sau giác mạc dạng mịn, các lắng đọng này mất đi sau khi lui bệnh. Mật độ tế bào nội mô ở mắt viêm màng bồ đào trước là 2472±222 tế bào/mm2, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Sau khi lui bệnh, mật độ tế bào ở mắt bệnh khác nhau không có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Kích thước tế bào ở mắt viêm màng bồ đào trước là 396,39±49,44μm2, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắt lành, sau khi lui bệnh kích thước tế bào nội mô trở về tương đương mắt lành. Ngoài ra, mật độ tế bào nội mô mắt viêm màng bồ đào trước có tương quan với tuổi bệnh nhân. Phương trình hồi quy giúp ước lượng mật độ tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước theo tuổi: mật độ tế bào nội mô = 3152 - 8*tuổi(tế bào/mm2). Kết luận: Sau khi lui bệnh, tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước hồi phục tương đương mắt lành và có mối tương quan giữa mật độ tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước với tuổi bệnh nhân

pdf5 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 94 KHẢO SÁT TẾ BÀO NỘI MÔ GIÁC MẠC Ở MẮT VIÊM MÀNG BỒ ĐÀO TRƯỚC Trần Chấn Thanh Vân*, Nguyễn Công Kiệt* TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu sự thay đổi tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực hiện tại Bệnh viện Mắt TPHCM từ 1/1/2010 đến 30/9/2010, gồm 23 bệnh nhân viêm màng bồ đào trước 1 mắt được thăm khám và điều trị, phân tích tế bào nội mô giác mạc bằng máy đếm tế bào nội mô Topcon SP-2000P. Kết quả đếm tế bào nội mô ở mắt viêm màng bồ đào trước được so sánh với mắt lành cùng bệnh nhân và phân tích sự thay đổi sau khi viêm màng bồ đào trước lui bệnh. Kết quả: mẫu nghiên cứu gồm 23 mắt viêm màng bồ đào trước vô căn với sự xuất hiện lắng đọng sau giác mạc dạng mịn, các lắng đọng này mất đi sau khi lui bệnh. Mật độ tế bào nội mô ở mắt viêm màng bồ đào trước là 2472±222 tế bào/mm2, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Sau khi lui bệnh, mật độ tế bào ở mắt bệnh khác nhau không có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Kích thước tế bào ở mắt viêm màng bồ đào trước là 396,39±49,44μm2, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắt lành, sau khi lui bệnh kích thước tế bào nội mô trở về tương đương mắt lành. Ngoài ra, mật độ tế bào nội mô mắt viêm màng bồ đào trước có tương quan với tuổi bệnh nhân. Phương trình hồi quy giúp ước lượng mật độ tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước theo tuổi: mật độ tế bào nội mô = 3152 - 8*tuổi(tế bào/mm2). Kết luận: Sau khi lui bệnh, tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước hồi phục tương đương mắt lành và có mối tương quan giữa mật độ tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước với tuổi bệnh nhân. Từ khoá: tế bào nội mô, viêm màng bồ đào trước, máy đếm tế bào nội mô. ABSTRACT EVALUATION OF CORNEAL ENDOTHELIUM IN ANTERIOR UVEITIS Tran Chan Thanh Van, Nguyen Cong Kiet * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 94 - 98 Purpose: Evaluating the changes of corneal endothelium in patient with anterior uveitis. Methods: In this prospective study, 23 patients with active unilateral anterior uveitis were recruited. Every patient underwent a complete examination on slit lamp and analysed corneal endothelium by Topcon SP-2000P. The results of corneal endothelium in anterior uveitis eyes were compared with the results uninvolved eyes and analysed the changes after remission. Results: 23 cases with unilateral idiopathic anterior uveitis had smooth keratic precipitates which disappeared after remission. Mean cell density in anterior uveitis eyes was 2472±222 cells/mm2 which statistically differed from the uninvolved eyes. Mean cell size was 396.39±49.44μm2 which statistically differed from the uninvolved eyes. After remission, those results came back to normal ranges. In addition, cell density in anterior uveitis eye had strong correlation with patient’s ages. The regression equation: cell density in anterior uveitis eye = 3152 – 8 * ages(cell/mm2). *Bộ Môn Mắt, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BSNT Trần Chấn Thanh VânĐT: 0908002544 Email: bsvantran@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Mắt 95 Conclusions: After remission, endothelial cell density of anterior uveitis eye recovered as well as the uninvolved eye and had strong correlation with patien’s ages. Keywords: corneal endothelium, anterior uveitis, specular microscopy. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm màng bồ đào trước là bệnh lý viêm nhiễm ở bán phần trước nhãn cầu với tần suất 8/100.000 trên thế giới(12) xuất hiện chủ yếu ở dân số trẻ và trung niên. Viêm màng bồ đào trước do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó nhiều nhất là viêm màng bồ đào trước vô căn(7). Thị lực có thể giảm nặng nề nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời. Viêm màng bồ đào trước thường làm thay đổi lớp tế bào nội mô giác mạc và ảnh hưởng tới độ trong suốt của giác mạc. Trên thế giới, các nhà lâm sàng sử dụng máy đếm tế bào nội mô để khảo sát đặc điểm lớp tế bào nội mô qua các thông số: chiều dày giác mạc, mật độ tế bào nội mô, kích thước tế bào nội mô, tỉ lệ đa kích thước tế bào. Từ đó, các nhà lâm sàng phân tích kết quả này để đánh giá chức năng tế bào nội mô đang khảo sát. Tế bào nội mô cũng là yếu tố quan trọng giúp đánh giá chất lượng vi phẫu liên quan bán phần trước, thường gặp như là phẫu thuật nhũ tương hóa thủy tinh thể. Nghiên cứu về tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước được thực hiện nhiều nơi thế giới, nhưng tại Việt Nam vẫn chưa có công trình nào khảo sát đề tài tương tự. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích: - So sánh kết quả đếm tế bào nội mô giác mạc ở mắt viêm màng bồ đào trước giai đoạn viêm cấp và giai đoạn lui bệnh, có so sánh với mắt lành. - Xác định mối tương quan giữa mật độ tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước với các yếu tố khác. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện từ 1/1/2010 đến 30/9/2010 tại bệnh viện Mắt TP.HCM. Trong nghiên cứu tiến cứu này, 23 bệnh nhân viêm màng bồ đào trước 1 mắt được đưa vào mẫu nghiên cứu. Các bệnh nhân có tiền căn chấn thương nhãn cầu, sử dụng kính áp tròng, loạn dưỡng hoặc sẹo giác mạc, phù giác mạc, các bệnh lý bán phần trước có ảnh hưởng giác mạc hoặc đã từng phẫu thuật nội nhãn đều bị loại khỏi nghiên cứu. Khi thăm khám, dữ liệu của bệnh nhân được ghi lại đầy đủ gồm tuổi, giới, nơi cư ngụ, tiền căn bệnh lý, triệu chứng ở mắt. Các bệnh nhân trong mẫu được kiểm tra thị lực, thăm khám bằng đèn pin và sinh hiển vi, phân độ mức độ phù giác mạc và mức độ tế bào viêm trong tiền phòng (Tyndall). Lắng đọng sau giác mạc được mô tả kỹ về hình thái, số lượng, vị trí và màu sắc. Ngoài ra, tất cả bệnh nhân đều được làm một số xét nghiệm để tìm nguyên nhân như công thức máu, tổng phân tích nước tiểu, X quang ngực và tìm kí sinh trùng. Phân độ phù giác mạc thường sử dụng trên lâm sàng - Độ 1: giác mạc mờ nhẹ, thấy rõ chi tiết mống. - Độ 2: giác mạc mờ, thấy chi tiết mống. - Độ 3: giác mạc mờ đục, không thấy chi tiết mống. Phân độ Tyndall tiền phòng(4) Vết: <1 tế bào/mm2. 0,5+: 1 – 5 tế bào/mm2. 1+: 6 – 15 tế bào/mm2. 2+: 16 – 25 tế bào/mm2. 3+: 26 – 50 tế bào/mm2. 4+: >50 tế bào/mm2. Máy đếm tế bào nội mô Topcon SP-2000P được dùng để phân tích tế bào nội mô ở mắt bệnh và mắt lành. Bệnh nhân được điều trị bằng corticosteroid và atropin 1% nhỏ tại chỗ, tái khám mỗi 2 tuần. 3 tháng sau khi ngưng điều trị, viêm màng bồ đào trước được xem như lui Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 96 bệnh và bệnh nhân được phân tích tế bào nội mô lần nữa. Các yếu tố được phân tích bằng máy đếm tế bào nội mô gồm: chiều dày giác mạc, mật độ tế bào nội mô, kích thước tế bào và tỉ lệ đa kích thước tế bào. Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng Stata 10.0 có cập nhật. Sự khác biệt trong kết quả đếm tế bào nội mô bằng máy giữa mắt bệnh và mắt lành, mắt lui bệnh và mắt lành được kiểm định bằng phép kiểm Student. Giá trị p<0,05 được xem là khác nhau có ý nghĩa thống kê. Các mối tương quan giữa kết quả đếm tế bào nội mô với thị lực, mức độ phù trên lâm sàng, phân độ Tyndall được kiểm định bằng hệ số tương quan Spearman. Phương trình hồi quy giữa mật độ tế bào nội mô và yếu tố tương quan được xác định. KẾT QUẢ Bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 38,09, nam chiếm tỉ lệ 70%. Tỉ lệ bệnh nhân có hút thuốc lá trong mẫu là 61%. 100% bệnh nhân được chẩn đoán viêm màng bồ đào trước vô căn. 70% bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu có triệu chứng sợ ánh sáng nhưng lý do chính khiến bệnh nhân đi khám là đau nhức(26%) và mờ mắt(26%). Thị lực logMAR trung bình là 0,22. 87% bệnh nhân có phù giác mạc, 100% bệnh nhân có Tyndall tiền phòng, 9% có mủ tiền phòng, 17% có dính mống mặt trước thủy tinh thể, 39% đồng tử thay đổi, 17% có sắc tố mặt trước thủy tinh thể. 100% bệnh nhân không có tổn thương đáy mắt. Sau khi viêm màng bồ đào trước lui, tất cả các triệu chứng trên đều hồi phục trừ sắc tố mặt trước thủy tinh thể. Lắng đọng sau giác mạc đều là lắng đọng mịn, kích thước nhỏ, bờ rõ, máu trắng sữa, tập trung ở 1/3 dưới giác mạc, biến mất sau khi viêm màng bồ đào trước lui bệnh. Khi phân tích tế bào nội mô bằng máy đếm tế bào nội mô, mật độ tế bào ở mắt bệnh giảm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Trong khi đó, chiều dày giác mạc, kích thước tế bào và tỉ lệ đa kích thước tế bào đều tăng, sự khác biệt so với lành là có ý nghĩa thống kê. Sau khi viêm màng bồ đào trước lui bệnh, các giá trị này so với mắt lành khác biệt không có ý nghĩa thống kê, trừ tỉ lệ đa kích thước tế bào tuy có trở về gần giá trị bình thường nhưng vẫn khác biệt có ý nghĩa thống kê với mắt lành. Bảng 1: Kết quả phân tích tế bào nội mô giác mạc bằng máy đếm tế bào nội mô. Kết quả Mắt lành Mắt bệnh Mắt lui bệnh Chiều dày giác mạc(μm) 0,522 ± 0,013 0,589 ± 0,036 0,528 ± 0,013 Mật độ tế bào(tế bào/mm2) 2962 ± 192 2472 ± 222 2836 ± 221 Kích thước tế bào(μm2) 331,87 ± 34,38 396,39 ± 49,44 348,35 ± 42,93 Tỉ lệ đa kích thước tế bào(%) 25 ± 3 36 ± 6 30 ± 3 Tỷ lệ mất tế bào nội mô giả thuyết = x 100%. với: - CD0: mật độ tế bào nội mô mắt lành.; CD1: mật độ tế bào nội mô mắt viêm màng bồ đào trước. Tỷ lệ mất tế bào nội mô giả thuyết có tương quan thuận mạnh với mức độ phù và mức độ Tyndall tiền phòng. Tyndall tiền phòng càng nhiều thì tỷ lệ mất tế bào nội mô giả thuyết càng cao(r=0,63). Tỷ lệ mất tế bào nội mô giả thuyết càng cao thì mức độ phù giác mạc càng nhiều (r=0,90). Mật độ tế bào nội mô giác mạc có tương quan hồi quy với tuổi, phân độ phù, mức độ Tyndall và thị lực logMAR(p=0,00). Trong mô hình đa biến, tuổi là yếu tố có khả năng giải thích 67% sự biến thiên của mật độ tế bào nội mô giác mạc mắt viêm màng bồ đào trước. Phương trình hồi quy: mật độ tế bào nội mô mắt VMBĐT= 3152 – 8 * tuổi(tế bào/mm2). BÀN LUẬN Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 38,09. Khi so với kết quả của Olsen là 30 tuổi(8), kết quả của Pillai là 42,9 tuổi(11) và kết quả của Mahendradas là 40 tuổi(6) thì sự chênh lệch là không nhiều và đều ở độ tuổi trung niên. Tỉ lệ hút thuốc lá trong mẫu nghiên cứu là khá cao (61%). Theo nghiên cứu của Pheobe và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Mắt 97 cộng sự(10), hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ gây viêm màng bồ đào các loại. Toàn bộ các trường hợp trong mẫu nghiên cứu đều là viêm màng bồ đào trước vô căn. Tỉ lệ này là khá cao so với kết quả nghiên cứ David là 48%(2), và nghiên cứu của Olsen là 73%(8). Theo Whitcupp, hiện nay VMBĐT vô căn vẫn chiếm đa số, sau đó là VMBĐT do bệnh lý liên quan HLA-B27(12). Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam, bộ xét nghiệm chẩn đoán các bệnh lý HLA-B27 là chưa thông dụng và giá thành cao. Bảng 2: So sánh thị lực ở bệnh nhân VMBĐT Thị lực logMAR <0,5 ≥0,5 Nghiên cứu của William(13) 90% 10% Nghiên cứu của chúng tôi 87% 13% Với nghiên cứu của William, 90% bệnh nhân thị lực nhỏ hơn 0,5(13). Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi cũng hầu hết nhỏ hơn 0,5. Lý giải cho điều này là do thị lực ở bệnh nhân VMBĐT không có tổn thương đáy mắt đa phần bị ảnh hưởng bởi độ trong suốt của giác mạc và tiền phòng. Do đó, bệnh nhân VMBĐT nếu đến sớm thì thị lực chưa giảm nhiều, thậm chí trong nghiên cứu của chúng tôi có những bệnh nhân thị lực logMAR vẫn là 0. Hầu hết các bệnh nhân đến khám đều có phù giác mạc và Tyndall tiền phòng. Các triệu chứng như mủ hoặc fibrin tiền phòng, dính mống mắt, sắc tố mặt trước thủy tinh thể đều xuất hiện ở các ca viêm nặng Tyndall 4+. Các triệu chứng tại mắt VMBĐT sau điều trị đều biến mất trừ sắc tố mặt trước thủy tinh thể. Các tác giả nước ngoài có các công trình nghiên cứu dựa vào hình thái lắng đọng sau giác mạc để chẩn đoán nguyên nhân VMBĐT. Nghiên cứu của chúng tôi 100% là VMBĐT vô căn với lắng đọng sau giác mạc là dạng mịn, nhỏ, bờ rõ, màu trắng sữa, mất đi sau khi lui bệnh. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của Pillai(11), Kanavi(5), Mahendradas(6). Tuy nhiên, kết quả của các tác giả này còn ghi nhận VMBĐT có lắng đọng dạng hạt mỡ hoặc bờ có tua là VMBĐT có nguyên nhân do nhiễm trùng, do bệnh lý toàn thân khác. Phân tích tế bào nội mô bằng máy đếm, tình trạng VMBĐT làm giảm mật độ tế bào nội mô. Khi mật độ tế bào nội mô giảm ở mắt VMBĐT, hàng rào nội mô có kẽ hỡ nên nước vào nhu mô nhiều hơn dẫn đến chiều dày giác mạc cũng tăng theo. Các tế bào nội mô lân cận vùng tổn thương sẽ kéo dãn dài ra bù đắp vào vùng tổn thương nên làm tăng kích thước tế bào và tỉ lệ đa kích thước tế bào. Khi các tế bào phục hồi tổn thương hoàn toàn, mật độ tế bào nội mô, chiều dày giác mạc, kích thước tế bào đều hồi phục không có sự khác biệt so với mắt lành. Kết quả của Pillai(11) cũng cho thấy mật độ tế bào nội mô giảm và kích thước tế bào tăng khi VMBĐT và hồi phục tương đương mắt lành khi lui bệnh. Khi đánh giá tỷ lệ mất tế bào nội mô giả thuyết, chúng tôi ghi nhận có mối tương quan giữa tỷ lệ này với mức độ Tyndall tiền phòng. Với hệ số tương quan r=0,63 là tương quan thuận mức độ mạnh, phản ứng viêm càng nặng thì tỷ lệ mất tế bào giả thuyết ở mắt bệnh càng cao. Khi tỷ lệ mất tế bào càng cao, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ này lại có tương quan với mức độ phù trên lâm sàng r=0,90. Điều này là phù hợp thực tế lâm sàng vì khi mất tế bào nội mô càng nhiều, nước sẽ vào nhu mô nhiều dẫn tới phù giác mạc nhiều hơn. So sánh với các nguyên nhân khác gây giảm mật độ tế bào nội mô như bảng 3, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ mất tế bào do VMBĐT là cao nhất 17%. Bảng 3: Tỷ lệ mất tế bào nội mô do các nguyên nhân khác nhau Nghiên cứu Sau mổ nhũ tương hóa thủy tinh thể(2) Sau mổ thủy tinh thể ngoài bao(2) Xuất huyết tiền phòng do chấn thương đụng dập(8) Viêm màng bồ đào trước Tỉ lệ mất tế bào nội mô(%) 15 9 16 17 Sau khi ngưng điều trị 3 tháng, VMBĐT được gọi là lui bệnh, mật độ tế bào nội mô giác mạc hồi phục không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả của Pillai(11) và Olsen(8). Ngược lại, trong nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 98 Thu Hương, tổn thương tế bào nội mô do mổ thủy tinh thể là tổn thương chiều dọc, càng gần vết mổ tổn thương càng nhiều, khi hồi phục cũng hồi phục theo chiều dọc nên cần nhiều thời gian hơn(2). Theo tác giả Wirbelauer, tế bào nội mô tổn thương do phẫu thuật thủy tinh thể hồi phục khoảng 11% sau 6 tháng(14). Như vậy, nội mô ở mắt VMBĐT hồi phục nhanh và nhiều hơn có lẽ do đây là tổn thương lan tỏa nên có xu hướng hồi phục cùng lúc chứ không hồi phục lần lượt. Trong phân tích hồi quy đơn biến, mật độ tế bào nội mô giác mạc mắt VMBĐT có tương quan với tuổi(p=0,01), mức độ phù(p=0,00), mức độ Tyndall tiền phòng(p<0,001) và thị lực logMAR(p<0,001). Chúng tôi tiếp tục phân tích hồi quy đa biến và so sánh với phân tích hồi quy đơn biến. Kết quả cho R-squared của phân tích hồi quy đa biến cao hơn hồi quy đơn biến. Chúng tôi kết luận mô hình đa biến có tác dụng dự đoán tốt hơn và có khả năng giải thích 67% mức độ biến thiên của mật độ tế bào nội mô mắt VMBĐT. Trong phương trình phân tích hồi quy đa biến, biến độc lập tuổi có ý nghĩa thống kê với mật độ tế bào nội mô mắt VMBĐT: Mật độ tế bào nội mô mắt VMBĐT= 3152- 8*tuổi(tế bào/mm2). Nhiều nghiên cứu cho thấy ở mắt bình thường có sự tương quan giữa mật độ tế bào nội mô với tuổi tác, khi tuổi càng cao mật độ tế bào nội mô càng giảm với tỷ lệ giảm 0,6%/năm(3). Qua nghiên cứu của chúng tôi, kết quả cho thấy mắt VMBĐT cũng vẫn có tương quan với tuổi. 5. KT LUN Qua khảo sát 23 mắt VMBĐT, chúng tôi nhận thấy: - Ở mắt VMBĐT, mật độ tế bào nội mô trung bình là 2472 ± 222 tế bào/mm2, kích thước tế bào trung bình là 396,39 ± 49,44μm2, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. Khi VMBĐT lui bệnh, kết quả này khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với mắt lành. - Có mối tương quan giữa mật độ tế bào nội mô mắt VMBĐT với tuổi theo phương trình hồi quy: Mật độ tế bào nội mô mắt VMBĐT = 3152 - 8*tuổi(tế bào/mm2). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bourne W., Nelson L., Hodge D. (1997). “Central corneal endothelial cell changes over a ten – years period”. Invest. Ophthalmol. Vis. Sci.; 38(3): 779 – 782. 2. Bùi Thị Thu Hương (1999). “Nghiên cứu sự thay đổi tế bào nội mô giác mạc sau phẫu thuật ngoài bao và nhũ tương hoá thể thuỷ tinh”. 3. David C.G., Ira G.W. (2004). ‘The incidence and prevalence of uveitis in Northern California. The Northen California Epimiology of Uveitis Study”. Ophthalmology; 111(3): 491 – 500. 4. Jab D.A., Nussenblatt R.B., Rosenbaum J.T., Standardization of Uveitis Nomenclature Working Group (2005). “Standardization of uveitis nomenclature for reporting clinical data. Results of the Firsr International Workshop”. Am. J. Ophthalmol.; 140(3): 509 – 516. 5. Kanavi M.R., Soheinlian M., Naghshgar N. (2010). “Confocal scan of keratic precipitates in uveitis eyes of varous etiologies” Cornea; 29(6): 650 – 654. 6. Mahendradas P., Shetty R., Narayana K.M., Shetty B.K. (2010). “In vivo confocal microscopy of keratic m precitates in infectious versus noinfectious uveitis”. Ophthalmology; 117(2): 373 – 380. 7. Murray P.I. (2008). “Anterior Uveitis”. In: Albert D.M., Miller J.W., Azar D.T., Blodi B.A. (Eds). Albert & Jakobiecs’s principles and practice of Opthalmology, 3rd edition, Vol. 1. 8. Nguyễn Trần Quốc Hoàng (2005). “Đánh giá tình trạng nội mô giác mạc trong xuất huyết tiền phòng do chấn thương đụng dập nhãn cầu”. 9. Olsen T. (1080). “Changes in the corneal endothelium after acute anterior uveitis as seen with the specular mocroscopy”. Acta Opthalmol.; 58(2): 250 – 256. 10. Phoebe L., Allison R.L., Todd P.M., Nisha R.A.(2010). “Ciragette smoking as a risk factor for uveitis”. Ophthalmology; 117(3): 585 – 590. 11. Pillai C.T., Dua H., Azura Blanco A., Sherman A.R. (2000). “Evaluation of corneal endotheium and keratic precipitates by specular micropscopy in anterior uveits”. Br. J. Ophthalmol.; 84(12): 1367 – 1371. 12. Whitcup S.M. (2010). “Anterior uveitis”. In: Uveitis fundamentals and clinical practice: 251 – 261. 13. William J.P., Alejandro R., Miguel P.S., Foster C.S. (1998). “Outcomes in anterior uveitis associated with HLA-B27 haplotype”. Ophthalmology; 105(9): 1646 – 1651. 14. Wirbelauer C., Anders N., Pham D.T., Wolensack J. (1998). “Corneal endothelial cell changes in pseudoexfoliation syndrome after cataract surgery”. Arch. Ophthalmol.; 116(2): 145 – 149.
Tài liệu liên quan