Thuật ngữ “Ballast” thường được dùng để chỉ bất cứ vật nặng nào đặt trong tàu mà thấp hơn trọng lực trung tâm. Ballast cung cấp cho thân tàu sự ổn định và đảm bảo tàu có độ sâu hợp lý khi ở trong nước để hoạt động có hiệu quả và hoạt động của chân vịt cũng đạt được hiệu quả. Ballast giúp cho tàu thuyền ổn định hơn và di chuyển an toàn hơn. Điều chỉnh Ballast của tàu bằng cách thêm vào hoặc bỏ đi những vật liệu như cát, sỏi, đá, và nước. Ballast thì đặc biệt quan trọng ởnh
18 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát thành phần loài phiêu sinh động vật ngoại lai trong nước dằn tàu tại các cảng thuộc thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2
Chương 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Nước dằn tàu, hệ thống nước dằn và những rủi ro do nước dằn tàu gây ra
1.1.1 Nước dằn tàu (Ballast Water)
Thuật ngữ “Ballast” thường được dùng để chỉ bất cứ vật nặng nào đặt trong tàu mà
thấp hơn trọng lực trung tâm. Ballast cung cấp cho thân tàu sự ổn định và đảm bảo
tàu có độ sâu hợp lý khi ở trong nước để hoạt động có hiệu quả và hoạt động của
chân vịt cũng đạt được hiệu quả. Ballast giúp cho tàu thuyền ổn định hơn và di
chuyển an toàn hơn. Điều chỉnh Ballast của tàu bằng cách thêm vào hoặc bỏ đi
những vật liệu như cát, sỏi, đá, và nước.
Ballast thì đặc biệt quan trọng ở những tàu mang ít hay không mang hàng hóa. Khi
tàu đầy hàng hóa, sự ổn định của tàu chủ yếu được thực hiện bởi hàng hóa. Khi tàu
không có hàng hóa hoặc ít hàng hóa, do sức nổi làm sự bất ổn định của tàu tăng lên.
Ballast là hình thức giúp thêm trọng lượng vào phần thấp hơn của tàu, làm tăng
trạng thái ổn định bằng cách kéo trọng lực trung tâm xuống thấp hơn trung tâm của
sức nổi [13].
Các sáng kiến như dây xích và những vật liệu nặng khác như cát và các tảng đá
được sử dụng như ballast. Từ sau 1870 người ta bắt đầu thay thế các vật liệu trên
bằng nước. Chất lỏng sử dụng thuận lợi hơn là ballast rắn một cách đáng kể. Nó
được lấy vào và xả ra nhanh, và nó có thể luân phiên giữa các khoang ballast trong
một tàu. Nước dằn tàu được sử dụng đảm bảo sự ngăn nắp, tính tiện dụng và ổn
định của tàu trong suốt qua trình bốc dỡ hàng hóa ở cảng và ở biển. Nước dằn tàu
còn có vai trò bù đắp cho phần nhiêu liệu tiêu hao trong quá trình vận chuyển của
tàu [13].
Tàu viễn dương sử dụng nước dằn tàu (Ballast Water) để duy trì trạng thái ổn định,
cân bằng, độ bền cấu trúc của tàu. Thông thường, các tàu sẽ bơm nước dằn tàu vào
3
khoang chứa khi dỡ hàng hóa tại cảng dỡ hàng và bơm ra khi chất hàng hóa tại một
cảng khác (hình 1.1). Ngoài ra, các tàu này bơm nước dằn tàu vào để gia tăng trọng
lượng khi đi băng qua các cầu, và bơm nước dằn tàu ra ngoài nhằm giảm trọng
lượng khi đi vào những sông cạn, hoặc vào những kênh. Nước dằn tàu có vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động của các tàu viễn
dương [14].
Hình 1.1. Hoạt động bơm và xả nước dằn tàu của tàu thuyền
Sức chứa nước dằn tàu phụ thuộc vào loại tàu, tải trọng và khối lượng hàng trên tàu,
được thể hiện ở bảng 1.1 (DWT, Dead Weight Tonnage) là tổng trọng lượng hoặc
khối lượng của hàng hóa, nhiên liệu, nước ngọt, nước dằn, lương thực, hành khách
và thủy thủ).
4
Bảng 1.1 Sự phân bổ nước dằn tàu sẽ phụ thuộc vào tiêu chuẩn thiết kế, kích
thước và sức tải của tàu thuyền [20].
Trạng Thái Nước Dằn Tàu
Loại Tàu
Tải Trọng
(DWT)
Thông
Thường
(Tấn)
Phần Trăm
Tải Trọng
(%)
Chất Đầy
(Tấn)
Phần Trăm Tải
Trọng
(%)
Tàu chở hàng
(Bulk Carrier)
250,000 75,000 30 113,000 45
Tàu chở hàng
(Bulk Carrier)
150,000 45,000 30 67,000 45
Tàu chở hàng
(Bulk Carrier)
70,000 25,000 36 40,000 57
Tàu chở hàng
(Bulk Carrier)
35,000 10,000 30 17,000 49
Tàu chở dầu 100,000 40,000 40 45,000 45
Tàu chở dầu 40,000 12,000 30 15,000 38
Tàu chở container 40,000 12,000 30 15,000 38
Tàu chở container 15,000 5,000 30 Chưa biết
Tàu chở dầu
General cargo
17,000 6,000 35 Chưa biết
Tàu chở dầu
General cargo
8,000 3,000 38 Chưa biết
Tàu chở người
passenger
3,000 1,000 33 Chưa biết
5
1.1.2 Các loại tàu và nơi đặt khoang chứa nước dằn tàu
• Tàu chở hàng hoá (Bulk Carrier)
• Tàu chở hàng hoá (General Cargo Ship)
• Tàu chở container (Container Ship)
6
• Tàu chở quặng (Ore Carrier)
Hình 1.2 Các loại tàu và nơi đặt khoang chứa nước dằn tàu [15].
1.1.3 Những rủi ro do nước dằn tàu gây ra
Theo Marsha Walton của báo CNN thì Cơ quan bảo vệ đường biển Hoa Kỳ sẽ nỗ
lực để sớm đưa ra những luật lệ mới nhằm ngăn chặn những tàu trên khắp thế giới
mang lại những hàng hoá không mong muốn và có khi là hàng hoá nguy hại. Những
hàng hoá này không phải là vũ khí hoặc những vật liệu nguy hại, nhưng là những
loài sinh vật lạ mà chúng ta muốn ngăn chặn. Đó là những “hành khách đi lậu vé”
và có thể tàn phá hệ sinh thái cảng.
Tổ chức hàng hải quốc tế ước đoán có khoảng 7,000 loài khác nhau được vận
chuyển theo nước dằn tàu mỗi ngày. Có khoảng 80 % hàng hoá thương mại trên thế
giới được vận chuyển bằng tàu. Theo Liên Hiệp Quốc thì 3 yếu tố: tàu di chuyển
nhanh hơn, biển ấm hơn và thương mại nhiều hơn sẽ tăng cường khả năng đe doạ
của những loài sinh vật xâm lấn [16].
Linda Farmer - một nhà hải dương học ở đại học Miami nói: “Đến những vùng đất
mới những sinh vật này không có những kẻ thù thực sự, hàng rào của những quần
thể địa phương không có và những sinh vật này có thể cạnh tranh với những quần
thể địa phương, kết quả là các sinh vật lạ này có thể gây xáo trộn chuỗi thức ăn”.
7
Nếu điều kiện nhiệt độ và chất lượng nước ở cảng mới tương tự như ở cảng nhà thì
cơ hội để những “kẻ đi lậu vé” này bùng phát sẽ lớn hơn [16].
Mỗi giờ có trung bình hơn 2 triệu gallon (7,570,824 l) nước dằn tàu, cũng có nghĩa
là 2 triệu gallon của phiêu sinh vật ngoại lai được giải phóng trong các thuỷ vực
nước ở Mỹ. Nước dằn tàu có thể là nguồn phóng thích những sinh vật lạ vào những
hệ sinh thái ven bờ của nước Mỹ với số lượng rất lớn [17].
Theo Cơ Quan Nghiên Cứu Quốc Gia Hoa Kỳ thì có hơn 3000 loài được vận
chuyển trong những con tàu mỗi ngày trên khắp thế giới [18].
“Mỗi phút có 40,000 gallon (151,416.48 l) của nước dằn tàu nước ngoài được xả
vào nguồn nước của Hoa Kỳ” [19].
Ước tính có ít nhất khoảng 7,000 loài khác nhau được mang trong những khoang
chứa nước ballast trên toàn thế giới. Hầu như tất cả những loài sinh vật biển được
mang trong nước dằn không sống sót được trong suốt chuyến đi. Môi trường trong
các khoang nước dằn có thể cản trở sự sinh tồn của các sinh vật, thậm chí có những
loài sống sót được sau cuộc hành trình thì vẫn có rất ít cơ hội sống sót trong những
điều kiện mới do bị tiêu diệt bởi những loài ăn mồi, sự canh tranh với loài bản địa.
Tuy nhiên khi những yếu tố trở nên thuận lợi hơn cho sự xâm chiếm của những loài
đem vào, chúng sẽ thiết lập một quần thể sinh sản bên trong môi trường mà chúng
cư ngụ, chúng sẽ cạnh tranh với loài bản địa, và tăng số lượng lên gấp bội, phá vỡ
các tỷ lệ cân bằng của môi trường mới [20].
Một vấn đề môi trường có rủi ro tiềm tàng nghiêm trọng được nêu lên khi nước dằn
tàu chứa đựng trong môi trường biển. Có hàng ngàn loài sinh vật biển có thể được
mang trong nước dằn tàu; những loài này đủ nhỏ để đi qua ống lấy nước của tàu ở
8
cảng và các máy bơm. Chúng là các vi khuẩn, động vật không xương cỡ nhỏ, trứng,
nang bào tử (cysts) và ấu trùng của nhiều loài khác.
Vấn đề trở nên phức tạp hơn bởi sự thật là hầu như tất cả những loài sinh vật biển
đều có vòng đời bao gồm một giai đoạn sống phù du (planktonic) hoặc trải qua
nhiều giai đoạn. Thậm chí có những loài ở giai đoạn trưởng thành tưởng như không
thể được mang đi trong nước dằn tàu, có thể do kích thước của chúng quá lớn hoặc
do chúng sống gắn liền với nền đáy, nhưng chúng cũng có thể vận chuyển sang nơi
khác trong giai đoạn sống phù du (hình 1.3) [20].
A B
Hình 1.3 Mô tả vòng đời và khả năng được vận chuyển qua đường dằn tàu
của tôm Panda (A),con trai (B)
1.1.4 Những ví dụ điển hình về loài ngoại lai xâm lấn qua con đường nước dằn tàu,
và tàu viễn dương
Vào năm 1978, loài trai Ensis directus đã được mang vào German Bight qua con
đường nước dằn tàu và đã lan tràn nhanh chóng khắp vùng biển Bắc, nó đã trở
thành một trong số những loài hai mảnh vỏ phổ biến nhất, thay thế cho nhiều loài
bản địa [21].
9
Dreissena polymorpha, loài sò Sọc châu Âu đã được mang vào hồ Great Lakes vào
năm 1980 và gây tổn thất hàng triệu USD. Loài trai vằn này gây cản trở hệ thống
nước của thành phố và các nhà máy, ảnh hưởng đến vỏ tàu, công trình hàng hải và
ảnh hưởng tính mỹ quan của các bãi biển do số lượng và mùi hôi gây ra bởi xác chết
của loài này. Tại Mỹ, loài sò Sọc châu Âu Dreissena polymorpha đã phá hoại hơn
40% đường ống nội địa và tiêu phí 750 triệu – 1 tỷ USD phí tổn để kiểm soát giữa
năm 1989 và năm 2000 [22].
Loài phiêu sinh động vật Cercopagis pengoi, là loài rộng muối và rộng nhiệt, cũng
được tìm thấy ở cả nước lợ và nước ngọt, và có biên độ nhiệt độ rộng 3 – 38oC C.
pengoi thích môi trường nước lợ hơn nhưng cũng tìm thấy trong nước ngọt và môi
trường nước ấm. Khi mật độ C. pengoi tăng, ở vịnh Riga, quần thể Bosmina
coregoni maritima bị suy giảm một cách mạnh mẽ. Vào mùa xuân và mùa hè, khi
mà số lượng Bosmina trong môi trường xuống quá thấp, Ceropagis pengoi cạnh
tranh thức ăn với cả cá. Khi tập trung với số lượng lớn, tạo nên những khối nhầy
như keo dán giấy và làm tắc nghẽn các thiết bị tàu đánh cá, gây tắc nghẽn các lưới
kéo cá. Một số người đánh cá làm sạch lưới của họ thì than phiền về sự dị ứng do
loài này gây ra [23] Cercopagis pengoi được liệt kê vào 100 loài xâm hại nhất thế
giới [24].
Loài cua Carcinus maenas, có khả năng chịu biên độ muối rộng 4- 52‰ và nhiệt độ
0 -30oC. Điều này cho phép C. maenas sinh sống ở nồng độ muối thấp ở những
vùng cửa sông. Là loài bản địa của bờ biển Châu Âu và Bắc Châu Phi, du nhập vào
Nam Châu Úc, Nam Châu Phi, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Có khả năng thích ứng cao và
xâm hại. Cạnh tranh với những loài bản địa và trở thành loài chiếm ưu thế ở những
vùng xâm lấn, làm thay đổi hệ sinh thái vùng triều [25]. Loài này thường chiếm ưu
thế cạnh tranh và gây giới hạn nguồn thức ăn của những loài bản địa: làm suy giảm
quần thể hai mảnh vỏ ở Bắc Mỹ. Ảnh hưởng đến ngành thương mại và nuôi trồng
thủy sản: Ở Bắc Mỹ, gây ảnh hưởng đến ngành thương mại nuôi trồng thủy sản tại
10
Manila [26]. Ngoài ra còn có thể mang kí sinh trùng, Profilicolis botulus. C. maenas
được xếp vào một trong 100 loài xâm hại nhất thế giới [25].
Loài sứa lược Mnemiopsis leidyi, có khả năng chịu được biên độ muối và nhiệt độ
lớn 2-38‰ và 2-32oC, là loài ăn thịt, và sinh sản rất nhanh. Ở những vùng phong
phú nguồn thức ăn thì trong một mẫu nghiên cứu có thể có 10,000 trứng. Du nhập
vào Black Sea vào năm 1980, nơi chỉ có một loài sứa lược duy nhất, vào 1989 tăng
với mức độ cao nhất 400 cá thể/m3. Tiêu thụ trứng và ấu trùng của cá, nó là nguyên
nhân chính làm suy giảm quần thể cá và ngành thương mại cá ở vùng này. Vào năm
1999, loài này được du nhập vào Caspian Sea, 75% của phiêu sinh động vật đã bị
xóa bỏ, tác động nghiêm trọng đến chuỗi thức ăn trong hồ. Vào năm 2006, loài này
lan tràn ở lưu vực Địa Trung Hải và Đông Bắc Đại Tây Dương, phía tây biển Baltic
[27].
Loài cua Eriocheir sinensis, đây là loài bản địa của vùng Bắc Á, xâm hại và lan tràn
ở Bắc Mỹ và Châu Âu, cạnh tranh nguồn thức ăn với quần thể bản địa, hoạt động
đào bới của chúng gây đe dọa đối với hệ thống đê và gây tắc nghẽn sự thoát nước.
Có những nơi ở biển, loài cua này tập trung hàng trăm dặm, điều này gây lo ngại rất
lớn cho nghề cá ở các vùng bản địa như vịnh Chesapeake ở Maryland và sông
Hudson tại New York. Những tác hại của loài này đối với loài bản địa thì hiện nay
chưa biết [28].
Loài sao biển Asterias amurensis, là loài bản địa cùng vùng biển phía bắc Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nga và Nhật Bản, trở thành loài xâm hại ở Úc, chúng được mang
đi qua đường nước dằn tàu ở giai đoạn ấu trùng sống trôi nổi, gây tổn thất cho
ngành thương mại hai mảnh vỏ. Ở những nơi có mật độ cao chúng phá hủy chuỗi
thức ăn và cấu trúc quần xã [29].
Loà cỏ biển Undaria pinnatifida, là loài bản địa của khu vực bắc Châu Á, trở thành
loài xâm hại phía nam Châu Úc, New Zealan, bờ biển phía tây của Hoa Kỳ, Châu
11
Âu và Argentina. Tăng trưởng và lan tràn nhanh chóng, bào tử được phát tán khắp
nơi, thay thế những loài tảo bản địa và cấu trúc hệ sinh thái biển bản địa, có thể ảnh
hưởng đến ngành thương mại cá do sự cạnh tranh về không gian và thay đổi môi
trường cư trú [30].
Loài cá bống Neogobius melanostomus, là loài bản địa của vùng biển Caspian,
Black, Asov, trở thành loài xâm lấn ở vùng biển Baltic và phía bắc Châu Mỹ. Có
khả năng thích ứng rộng và xâm hại, tăng số lượng và lan tràn nhanh chóng, cạnh
tranh nguồn thực phẩm và môi trường sống với những loài cá bản địa, kể cả những
loài cá thương mại quan trọng. Chúng ăn trứng và con non của những loài cá khác,
đẻ trứng nhiều lần trong một mùa [31].
Độc tố của tảo, hiện tượng thủy triều đỏ, nâu, xanh là do nhiều loại tảo gây ra. Một
số loài tảo được vận chuyển qua đường nước dằn tàu đến những vùng đất mới và
gây ra hiện tượng nở hoa. Gây ảnh hưởng đến đời sống các loài sinh vật khác do sự
thiếu oxygen, tiết ra độc tố, và tích lũy độc tố trong các loài hai mảnh vỏ, ảnh
hưởng đến du lich vùng biển. Tảo độc ví dụ như Pyrodinium sp, Alexanrium sp,
những song chiên tảo Dinoflagellates, có thể gây thuỷ triều đỏ, đã được vận chuyển
từ Châu Úc đến vùng nước Đông Nam Á. Một vài loài gây ra độc tố hai mảnh vỏ
liệt cơ (paralytic shellfish poisoning) và gây nguy hại cho ngành công nghiệp nuôi
hai mảnh vỏ [30].
Loài vi khuẩn Vibrio cholerae, có nhiều chủng khác nhau, trở thành loài xâm hại ở
khu vực Nam Mỹ, vịnh Mexico và những vùng khác. Một số loài là nguyên nhân
gây ra dịch bệnh và được cho là có liên quan đến nước dằn tàu. Chẳng hạn như sự
lan truyền dịch bệnh ở 3 khu vực tách biệt nhau tại cảng Peru năm 1991, ảnh hưởng
lớn là ở khu vực Nam Mỹ, ảnh hưởng trên một triệu người và hơn mười ngàn người
tử vong vào năm 1994. Những chủng này trước đây được báo cáo chỉ có ở
Bangladesh [30].
12
Những loài sinh vật biển xâm lược là một trong bốn mối đe dọa lớn nhất đối với đại
dương toàn cầu. Không giống như những hình thức của ô nhiễm môi trường biển,
như tràn dầu, những nơi này có thể được dọn dẹp và làm sạch trở lại, tác động của
những loài sinh vật biển xâm chiếm hầu như không hồi phục được [ 22].
1.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Vào năm 2000, IMO liên kết với những tổ chức Global Environment Facility
(GEF), Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development
Programme, UNDP), các thành viên của chính phủ và ngành công nghiệp tàu bè để
hỗ trợ các nước chậm phát triển công nghiệp giải quyết vấn đề về nước dằn tàu. Tên
đầy đủ của đề tài này là “Removal of Barriers to the Effective Implementation of
Ballast Water Control and Management Measures in Developing Countries)”, có thể
hiểu đơn giản là Chương Trình Quản Lý Nước Dằn Tàu Toàn Cầu (The Global
Ballast Water Management Programme), hay GloBallast. Chương trình này hỗ trợ
các nước đang phát triển để thi hành những tiêu chuẩn hiệu quả để kiểm soát sự đưa
vào những loài ngoại lai ở biển [31]. Chương trình dự định thực hiện ở sáu vùng
phát triển chính của thế giới, được chỉ ra ở bản đồ dưới đây :
Hình 1.4 Chương trình quản lý nước dằn tàu tại 6 khu vực do IMO thực hiện
năm 2000 [31]
13
Nghiên cứu nước dằn tàu ở vịnh Tampa, Florida [32]
Viện Nghiên Cứu Động Vật Hoang Dã Và Cá Của Hội Đồng Bảo Tồn Động Vật
Hoang Dã và Cá Ở Florida - (The Florida Fish and Wildlife Conservation
Commission’s (FWC) Fish and Wildlife Research Institute (FWRI)) đã điều tra
những vi tảo gây hại và các phiêu sinh động vật, vi sinh vật không phải loài bản địa
được mang vào vịnh Tampa thông qua nước dằn tàu. Những mẫu được thu thập để
kiểm tra tiềm năng gây độc của các loài vi tảo không phải bản địa (nonnative), có
thể gây nguy hại đến vịnh Tampa. Những loài này được định danh, lập thành bảng
danh mục và kiểm tra khả năng gây độc. Khi đề tài này hoàn tất việc thu thập thông
tin thì sẽ được sử dụng cho nhiều mục đích :
• Đánh giá những rủi ro nguồn tài nguyên và sức khỏe cộng đồng liên quan với
việc đem vào tảo độc nguy hại đến vịnh Tampa.
• Những yêu cầu cho việc đánh giá ở tương lai.
• Cung cấp quy trình thu mẫu.
• Cung cấp danh sách những loài có nguy cơ tiềm ẩn và xác định nguồn gốc
của loài đó.
Những quần thể copepoda xâm hại vùng cửa sông San Francisco
Nếu như việc xả nước dằn tàu không được kiểm soát, quần xã phiêu sinh động vật
vùng cửa sông Francico sẽ tiếp tục thay đổi cũng như có nhiều loài mới hơn được
mang vào. Những thay đổi dẫn đến tác động tiêu cực đến kinh tế, tác động làm mất
đi sự đa dạng sinh học và những nguồn tài nguyên ở khu vực cửa sông. Vùng cửa
sông San Francisco được xem là vùng cửa sông bị xâm lấn nhiều nhất nước Hoa Kỳ
và thậm chí có thể nhất thế giới. Hầu hết những loài được đưa vào này có thể là do
sự tăng cường giao thông đường thuỷ và sự xả bỏ nước dằn tàu. Một kết quả nghiên
cứu đã cho thấy có ít nhất 8 loài copepoda xâm hại được xác định ở vùng cửa sông.
Thêm vào đó là loài copepod, Eurytemora affinis, hiện chưa rõ nguồn gốc và có thể
đã được mang vào cùng với loài cá vượt sọc (striped bass) từ sông Hudson vào cuối
thế kỷ 19. Đặc biệt 12 năm qua, có sự tăng lên số lượng loài được đem vào và sự
14
giảm số lượng những loài bản địa. Hướng về phía biển của vùng cửa sông, copepod
chiếm chủ yếu là phiêu sinh động vật (trung bình 92% thành phần phiêu sinh động
vật.Thành phần phiêu sinh động vật vùng cửa sông đã có nhiều thay đổi: ít nhất có
hơn 4 loài copepod: Oithona davisae (được mang vào năm 1963) và Limnoithona
tetraspina hiện nay chiếm số lượng 500,000 cá thể/m2, Pseudodiaptomus marinus,
Acartia sinensis và loài Tortanus dextrilobatus là loài ăn mồi (bảng 1.2) [33].
Bảng 1.2 Danh sách các loài phiêu sinh động vật lạ được tìm thấy ở vịnh San
Francisco và vùng cửa sông San Joaquin/Sacramento
Loài
Nguồn gốc Thời gian
đem vào
Tham khảo
Cyclopoida
Oithona davisae
Limnoithona sinensis
Limnoithona tetraspina
Calanoida
Eurytemora affinis
Sinocalanus doerrii
Pseudodiaptomus marinus
Pseudodiaptomus forbesi
Acartiella sinensis
Tortanus dextrilobatus
Nhật Bản
Trung Quốc
Trung Quốc
Bờ Biển Atlantic ?
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
Trung Quốc
Hàn Quốc hoặc
Trung Quốc
Trước 1963
1979
1992
1879
1978
1968
1987
1992
1992
Ferrari and Orsi, 1984
Ferrari and Orsi, 1984
Orsi and Ohtsuka, 1999
Orsi, 1995
Orsi et al., 1983
Orsi and Walter, 1991
Orsi and Walter, 1991
Orsi, 1995; Orsi and Ohtsuka, 1999
Orsi, 1995; Orsi and Ohtsuka, 1999
Bước đầu tham gia nghiên cứu tại Ấn Độ
Với 7,500 km chiều dài đường biển, Ấn Độ có số lượng tàu thuyền hoạt động nhiều
đáng kể ở 12 cảng chính. Trung bình có khoảng 5,000 tàu đến cảng Mumbai và
nhận khoảng 2 triệu tấn nước dằn tàu mỗi năm. Mặc dù, những nghiên cứu của Ấn
Độ mới ở bước đầu nhưng đã tìm thấy một loài ngoại lai xâm lấn Mytilopsis sallei
và đã lan rộng ở cảng Mumbai và Vishakapatanam. Đây là một loài vùng nhiệt đới
và ở phía dưới vùng nước Atlantic và được cho rằng đã xâm lấn vào Ấn Độ những
năm 1960. Nhận thấy được mối đe doạ toàn cầu nên Chương Trình Phát Triển Liên
Hiệp Quốc (United Nations Development Programme (UNDP)) và Hỗ Trợ Môi
trường Toàn Cầu (Global Environment Facility (GEF)) tiến hành chương trình quản
15
lý nước dằn tàu thông qua IMO. Ấn Độ là một trong 6 nước cùng với Brazil, Trung
Quốc, Iran, Nam Phi & Ukraine tham gia chương trình. Những vị trí thí điểm được
chọn là cảng Mumbai và Jawaharlal Nehru [34].
Theo Susumu Ohsuka và các công sự (2004) đã tổng hợp tài liệu của các tác giả
Reid &Pinto – Coelho (1994), Oris & Ohtsuka (1999), Bollen và cộng sự (2002),
những loài phiêu sinh động vật ngoại lai liên lục địa ở vùng cửa sông và bờ biển,
cùng những yếu tố vận chuyển (bảng 1.3) [35].
Bảng 1.3 Những loài phiêu sinh động vật ngoại lai liên lục địa ở vùng cửa sông
và bờ biển, cùng những yếu tố vận chuyển. (BW: Ballast Water, FI: Nghề cá
(Fisheries), AP: Thực vật thủy sinh (Aquatic plants), RC: Lúa gạo (Rice), ?:
Chưa biết) [35]
Loài Nơi Xâm Lấn Nguồn Gốc
Cơ Chế
Xâm Lấn
CALANOIDA
Acartia omorii
Acartia tonsa
Acartiella sinensis
Boeckella triarticulata
Centrophages abdominalis
Euryt