Cây vải có tên khoa học là Litchi chinensis Sonn. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae) có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc. Ngày nay, cây vải được trồng ở nhiều nước trên thế giới.
Vải là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Thịt quả chứa rất nhiều vitamin B, C, E và các chất vi lượng có lợi cho sức khoẻ con người. Quả vải được ăn tươi, sấy khô hoặc làm đồ hộp, nước giải khát
64 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Điều tra thành phần côn trùng trên cây vải thiều và nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr tại Sóc Sơn Hà Nội và các vùng phụ cận năm 2005-2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Cây vải có tên khoa học là Litchi chinensis Sonn. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae) có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc. Ngày nay, cây vải được trồng ở nhiều nước trên thế giới.
Vải là cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Thịt quả chứa rất nhiều vitamin B, C, E và các chất vi lượng có lợi cho sức khoẻ con người. Quả vải được ăn tươi, sấy khô hoặc làm đồ hộp, nước giải khát. Vỏ quả, thân cây và rễ có nhiều tanan có thể dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp. Hoa vải còn là nguồn mật có chất lượng cao. Ngoài ra gỗ vải là loại gỗ quý, không mối mọt, bền nên có thể dùng để xây nhà, đóng đồ. Tán cây vải cao lớn, sum suê, rễ bám chắc có thể làm cây bóng mát, cây chắn gió, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn,giữ cho đất luôn tươi xốp,...mang nhiều ý nghĩa về mặt môi trường.
Cây vải có tính thích ứng mạnh, dễ trồng, chịu được đất chua, đất dốc nên phát triển tốt trên các vùng đồi hoang hoá. Ở Việt Nam vải thường được trồng phổ biến ở vùng núi phía Bắc và miền trung du. Chủ trương của Đảng và chính phủ là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, phát triển kinh tế trang trại nhằm xoá đói giảm nghèo. Vì vậy trong những năm gần đây diện tích trồng vải trên đất đồi tăng lên nhanh chóng, đời sống của bà con nông dân không ngừng được cải thiện, kinh tế ngày càng phát triển, đồng thời giúp ổn định được trật tự an ninh xã hội.
Diện tích trồng vải tăng nhanh đồng nghĩa với việc mật độ và chủng quần sâu hại gia tăng. Có rất nhiều loại côn trùng hại cho vải như bọ xít hại nhãn vải, sâu cuốn lá, sâu đo, sâu xanh bướm vàng xám, rệp muội, rệp sáp,...Để phòng trừ sâu hại nông dân đã dựa chủ yếu vào thuốc hoá học mà không biết đến tác hại của nó gây ra như : làm phá vỡ mối cân bằng sinh thái tiêu diệt các loài kẻ thù tự nhiên, làm ô nhiễm môi trường, làm tăng tính kháng thuốc của những loài sâu hại. Việc sử dụng thuốc hoá học bừa bãi đã để lại lượng tồn dư hoá chất trong nông sản, thực phẩm làm ảnh hưởng đáng kể tới sức khoẻ cộng đồng.
Để ổn định và phát triển nông nghiệp một cách bền vững nói chung cũng như cây vải Thiều nói riêng cần nâng cao sự hiểu biết cho cộng đồng về sâu hại và thiên địch của chúng để có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn dịch hại cũng như bảo vệ khai thác hợp lý những loài côn trùng có ích, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độc hại cho con người và môi trường sống.
Được phép của khoa Công nghệ sinh học - Viện Đại học Mở Hà Nội, dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Xuân Thành - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Điều tra thành phần côn trùng trên cây vải thiều và nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. tại Sóc Sơn Hà Nội và các vùng phụ cận năm 2005-2006.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI.
Xác định được thành phần côn trùng có lợi và có hại theo mùa vụ và theo vùng địa lý.
Vẽ được đồ thị quy luật biến động số lượng của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr.
Nắm được đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái cơ bản của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr.
Vai trò của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata Fabr. trong việc tiêu diệt côn trùng hại.
1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI.
A.Điều tra nghiên cứu tại thực địa.
1. Xác định sự đa dạng về thành phần loài côn trùng hại và thiên địch của chúng.
2. Xác định quy luật phát sinh cũng như sự phân bố loài theo cây hoặc nhóm cây trồng theo mùa vụ hoặc vùng lãnh thổ địa lý.
B. Nghiên cứu trong phòng.
1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái cơ bản của bọ rùa 18 chấm.
2. Nghiên cứu khả năng tiêu diệt rệp của bọ rùa 18 chấm Harmonia sedecimnotata nhằm đề xuất hướng bảo vệ, sử dụng một cách có hiệu quả.
CHƯƠNG 2 : TỔNG QUAN
2.1.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÔN TRÙNG HẠI VÀ THIÊN ĐỊCH CỦA CHÚNG.
Cây vải là cây á nhiệt đới, nóng quá thì không ra hoa chỉ ra lá, rét quá thì chết. Vải được trồng ở những nơi có độ ẩm cao thường trồng ở vùng đồi núi, do đó thuận lợi cho các loại côn trùng phát triển. Ở các vùng địa lí khác nhau, những giai đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau có nhiều loại côn trùng khác nhau tấn công gây hại làm tổn thất về chất lượng và năng suất của sản phẩm.
2.1.1. Những nghiên cứu về côn trùng vải thiều của các tác giả nước ngoài
Ở Ấn Độ, L.B Singh đã tìm ra 11 loài ong, ruồi , ong bắp cày và những loài côn trùng khác thấy ở hoa vải. Ong mật, phần lớn là Apis cerana indica, A. dorsata và A. florea, 78% thụ phấn vải và chúng làm việc cả ngày và đêm.
( )
Năm 1932, Liên Xô đã nhập nội một loài bọ rùa từ Ai Cập có sức tiêu thụ rất mạnh các loài rệp Pseudococcus gabani, Pseudococcus cirti và rệp Pulvinaria phá hoại trên cây ăn quả và cây chè, kết quả là đã diệt được phần lớn các loài rệp này.
Ở Ba Lan đã thả 1500 ong mắt đỏ cho 1 cây ăn quả lâu năm cho mỗi đợt để diệt trứng của các loài sâu hại quả, kết quả thu được rất khả quan.
(Hồ Khắc Tín(1982). Giáo trình côn trùng nông nghiệp, NXB Nông nghiệp).
Năm 1941 ở Trung Quốc bọ xít hại nhãn vải Tessaratoma pappillosa và một loài côn trùng nhãn là Cornegenapsylla sinica gây ra đã làm cho lá cây vải bị nhỏ , quăn, hoa phát triển kém và bị biến dạng. Tỷ lệ cây nhãn vải ra chồi bất thường từ 20 –100%. Càng ở cây trưởng thành thì tỷ lệ càng cao. Loại bệnh này thường khiến cho năng suất giảm trung bình khoảng 10 – 20% thậm chí ở tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây thì sự thất thu là 50%.
Năm 1993 D.F Waterhouse đã công bố 4 loài sâu hại chính và quan trọng ở phía nam Châu Á là Aceria litchi (Keifer), Cnopomorpha sinensis, Cossus sp., Tessaratoma papillosa Drury. (The Maior Arthropod Pest and Weed of Agriculture in Southeast Asia: Distribution Impotance and Origin. Canberra, Australia – 1993.)
Năm 1997 nhóm tác giả LiLi_ Ying Wang Ren và D.F Water house đã xác định được 10 loài sâu hại phổ biến và quan trọng trên cây nhãn và vải ở phía nam Trung Quốc. (The distribution and impotance of arthropod pest and weed of Agriculture and Forestry plantationsin Southern China. Canberra 1997)
Năm 1998 Rajpal Singh và cộng tác viên phát hiện ra 16 loài sâu hại phổ biến tại một số huyện của Trung Quốc. (K.Flower visitor of litchi and their role in pollinnation and fruit production. Pest Management and Economic Zoology, 1998. Vol. 6, No. 1, pp. 1 – 5.7 ref.).
Năm 1998, Liu Xi Die và cộng tác viên đã tiến hành nhân nuôi ong Anastatus Japonicus Ashmaed để trừ bọ xít nhãn vải, hiệu lực phòng trừ đạt 94%. (Experiment of control of litchi stink bug by using Anastatus japonius Ashmead. South China Fruit, 1998)
Năm 1998 Randahawa H.S và Gill R.S đã nghiên cứu về loài sâu đục hạt vải Blastobasis sp. (Lepidoptera Blastobasidae).
Năm 1998 Liu Yu Fang và cộng sự nghiên cứu và so sánh mức độ ký sinh của 2 loài ong Anastatus sp. và Ooencyrtus sp. trên 2 vườn vải, 1 có sử dụng thuốc trừ sâu hoá học, 1 vườn áp dụng biện pháp điều khiển dịch hại tổng hợp IPM , kết quả tỷ lệ ký sinh của của vườn sử dụng thuốc hoá học chỉ thấy ong Anastatus sp. xuất hiện với tỷ lệ rất thấp, không thấy ong ký sinh Ooencyrtus sp. trong khi vườn áp dụng IPM, tỷ lệ ký sinh của ong Anastatus sp. là 17,7 – 18,4%, ong Ooencyrtus sp. là 23,5 – 30,4%.
Năm 1998, Luo Qi Hao và cộng sự đi sâu nghiên cứu loài bướm đêm chích hút quả vải Comocritis albicapilla Morinti, đây là một trong các loài sâu hại quan trọng. (Study on Comocritis albicapilla of litchi tree. Journal of South China Agricaltural University, 1998)
Năm 1999, Tan Shi Dong và cộng tác viên đã điều tra phát hiện được 83 loài sâu hại trên cây vải thuộc 76 giống, 30 họ, 7bộ, trong đó có 14 loài quan trọng nhất. (Study on the structure and dynamic of pest community in lychee orchard. Actaphytoppylacica Sinica, 1999)
Năm 1999, Yang Chi Kun và cộng sự đã nghiên cứu về loài ruồi hại vải thuộc giống Oligotrophini ở Quảng Đông, Trung Quốc. (A new genus ang species of gall midge (Dipera Cecidomyiidao) infesting litchi from China. Entomotaxonomia, 1999)
2.1.2.Những nghiên cứu về côn trùng vải thiều của các tác giả trong nước.
Điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta rất thuận lợi cho sự phát triển của côn trùng.Trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học Việt Nam đi sâu nghiên cứu về hệ côn trùng phong phú và đa dạng đó.
Năm 1967–1968, Viện BVTV đã điều tra thu thập được 18 loài sâu hại nhãn vải là: bọ dừa nâu, bọ dừa nâu nhỏ, sâu tiện vỏ, xén tóc mai rùa, rệp sáp cạnh, rệp sáp đỏ, rệp sáp nâu mềm, bọ xít vằn, sâu cuốn lá, rệp sáp Ai Cập, rệp sáp lớn giả cam , rệp sáp hình bán cầu , ve sầu bướm , bọ đa lớn hai chấm và bọ xít nhãn. (Kết quả điều tra côn trùng 1967–1968. NXB nông thôn.)
Năm 1982, sau một quá trình nghiên cứu có hệ thống, Hoàng Đức Nhuận đã phát hiện được ở Việt Nam trên 220 loài thuộc 65 giống, 15 tộc và 6 phân họ. (Bọ rùa – Coccinellidae ở Việt Nam. NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội - 1982)
Năm 1990, theo tác giả Vũ Công Hậu thì sâu hại vải thì có rất nhiều loài khác nhau, trong đó có các loài gây hại chủ yếu như: bọ xít nhãn vải (Tessaratoma papillosa), bọ xít dài hôi (Leptocorisa acuta), sâu đục vỏ (Indarbela sp), sâu cuốn lá (Olethreutes leucaspis), sâu đo xanh hai sừng (Thalassodes guadraria), rệp sáp (Ceroplastes rubens),...(Trồng cây ăn quả ở Việt Nam – NXB Nông nghiệp TP Hồ Chí Minh, 1990).
Bọ xít Tessaratoma papillosa là loài nghiêm trọng với các vườn vải và nhãn, chúng chích hút mầm non, quả non gây hiện tượng rụng quả, nếu chích hút quả già thi gây kém chất lượng. Năm 1995, Vũ Quang Côn và cộng sự nghiên cứu một số đặc điểm phát sinh , phát triển của bọ xít nhãn vải Tessaratoma papillosa Drury (Hemiptera : Pentatomidae ), đi sâu nghiên cứu sự phát triển của cá thể, của các cơ quan sinh sản, sự phát sinh lứa và biến động số lượng loài. Kết quả cho thấy thời gian cùng tồn tại gối lứa của bọ xít trưởng thành thế hệ cũ và mới kéo dài khoảng 30 ngày, trong đó bọ xít trưởng thành của thế hệ mới chiếm tới 61,4% còn bọ xít trưởng thành thế hệ cũ chỉ 38,6% Bằng thực nghiệm cho thấy mỗi con cái thế hệ mới ghép đôi giao phôí với con đực thế hệ cũ đẻ được 2 – 3 ổ trứng. Hiện tượng tiêu sinh trứng của trưởng thành cái xảy ra khi cách ly chúng với cây nhãn vải. Mật độ bọ xít cao nhất vào trung tuần tháng 4 (48 – 56 con/cây). (Một số đặc điểm phát sinh, phát triển của bọ xít nhãn vải Tessaratoma papillosa Drury (Hemiptera : Pentatomidae). Những công trình nghiên cứu cơ bản , 1995 ) [225–231].
Năm 1995, Trần Huy Thọ và cộng sự đã phát hiện dược 19 loài sâu hại và 4 loài nhện hại tại Hà Nội, Hải Hưng, Hà Nam, Yên Bái. Những loài sâu hại chính đó là: bọ xít hại nhãn vải , rệp sáp , ve sầu bướm , sâu tiện vỏ , sâu đục cành, sâu đục thân, nhện lông nhung và ruồi đục quả. (Một số kết quả nghiên cứu về sâu hại chủ yếu trên một số cây ăn quả ở miền Bắc nước ta. Tuyển tập công trình nghiên cứu. Viện BVTV 1990 – 1995).
Năm 1998 – 2000, Nguyễn Xuân Hồng đã xác định được 15 loài sâu hại vải ở Lục Ngạn (Bắc Giang), và Chương Mỹ (Hà Tây). Trong đó có 14 loài thuộc 5 bộ của côn trùng và 1 loài nhện hại, phổ biến là nhện lông nhung, bọ xít hại nhãn vải, rệp muội, sâu đục quả và ngài chích hút. Ngoài ra còn ghi nhận được một số đối tượng khác là dơi và chuột.
Năm 2001, chi cục BVTV tỉnh Bắc Giang đã ghi nhận được 17 loài sâu hại tại Bắc Giang chủ yếu là ve sầu nhảy, bọ xít nhãn vải và nhện lông nhung.
Năm 2003, đã có nhiều công trình nghiên cứu về côn trùng trên cây nhãn vải.
Phạm Văn Lầm và Nguyễn Thành Vĩnh dẫn liệu bước đầu về đặc điểm sinh học cơ bản của ong đen Ooencyrtus phongi Trjap ký sinh trứng bọ xít nhãn vải cho thấy: ở nhiệt độ 28,4 – 31,1°C và độ ẩm 74,2 – 79,6%, Ooencyrtus phongi ký sinh trứng bọ xít nhãn vải lhoàn thành vòng đời trong thời gian trung bình từ 12,8 – 13,5 ngày. Tuổi thọ của ong trưởng thành kéo dài 2,3 – 2,6 ngày (không được ăn thêm lá hoặc chỉ uống nước lã) đến 6,9 – 11,3 ngày (được ăn thêm nước đường hoặc dung dịch mật ong 50%). Một con ong trưởng thành cái ký sinh trung bình được 12,2 trứng bọ xít T.papillosa và sản sinh trung bình 136 ong trưởng thành cho đơì sau. (Dẫn liệu bước đầu về đặc điểm sinh học cơ bản của ong đen Ooencyrtus phongi Trjap, Myart. et Kost (Hymenoptera, Encyrtidae) ký sinh trứng bọ xít nhãn vải _ Tạp chí BVTV số 3/2003).
Cũng trong năm 2003, Phạm Đình Sắc nghiên cứu cấu trúc loài nhện bắt mồi và biến động số lượng của một số loài phổ biến trên cây vải vùng Sóc Sơn Hà Nội đã xác định được 33 loài nhện bắt mồi thuộc 10 họ, trong đó họ nhện nhảy Salticidae có số loài cao nhất (9 loài), tiếp đến là họ bụng tròn chăng lưới Araneidae (7 loai), họ nhện hàm dài Tetragnathidae (6 loài), họ nhện càng cua Thomicidae (3 loài), các họ còn lại 1 – 2 loài. Những loài bắt gặp nhiều và chiếm ưu thế trên vườn vải tại Sóc Sơn là nhện nhảy sọc đỏ Epocilla canlcarata, nhện nhảy vằn xanh Phintella sp., nhện càng cua lớn Heteropoda sp..Số loài nhện đã xác định dược trên cây vải tại Sóc Sơn Hà Nội phong phú hơn số loài nhện trên cây vải tại vùng Mê Linh Vĩnh Phúc. (Cấu trúc loài nhện bắt mồi và biến động số lượng của một số loài phổ biến trên cây vải vùng Sóc Sơn Hà Nội. Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV - Viện Bảo vệ thực vật - NXB Nông nghiệp)[125_129].
Năm 2003, Đào Đăng Tựu, Lê Văn Trịnh và Trần Huy Thọ đã điều tra thu thập được 51 loài sâu và nhện hại trong đó có 46 loài tập trung ở 6 bộ côn trùng và 5 loài ở lớp nhện. Bộ cánh vẩy Lepidoptera có nhiều nhất là 8 loài chiếm 35,3%, bộ cánh đều Homoptera có 15 loài chiếm 29,4%, bộ cánh cứng Coleoptera 8 loài chiếm 15,7%, cánh nửa Hemiptera 3 loài chiếm 5,8%, hai cánh Diptera, cánh tơ Thysanoptera chiếm 1,9%. Lớp nhện có 5 loài chiếm 10%. Trong số 51 loài gây hại đã phát hiện có 11 loài sâu hại rất phổ biến trong đó có 9 loài là đối tượng tập trung gây hại từ thời kỳ ra hoa cho tới lúc thu hoạch bao gồm : bọ xít vải , rệp muội , rệp sáp , sâu đục cuống quả, ruồi hại quả, nhện lông nhung, nhện chổi rồng, bướm chích quả,ve sầu bướm hai chấm trắng.
Các kết quả khảo sát nhện trên cây vải tại Mê Linh - Vĩnh Phúc và Sóc Sơn- Hà Nội cho thấy số loài và mật độ nhện ở mức cao trong quần xã các loài có ích. Năm 2003, Phạm Đình Sắc và Vũ Quang Côn đã nghiên cứu thành phần, số lượng và sự trú đông của nhện Araneae trên cây vải vùng Mê Linh – Vĩnh Phúc. Kết quả cho thấy nhện ẩn nấp ở bên trong giữa tấm các tông và vỏ thân hoặc cành cây. Trong tổng số 30 tấm các tông được đặt cố định trên cây vải thu được 179 cá thể nhện của 19loài thuộc 9 họ. Loài nhện thu được nhiều nhất là nhện nhảy vằn lưng Bianor hotingchiehi, sau đó là loài nhện nhảy sọc đỏ Epocilla calcarata. Số lượng nhện trú ẩn qua đông đạt cao nhất trong thời gian từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 11, đây cũng là thời kỳ rụng lá của vườn cây ăn quả.
(Thành phần, số lượng và sự trú đông của nhện Araneae trên cây vải tại vùng Mê Linh- Vĩnh Phúc. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống-báo cáo khoa học hội nghị toàn quốc lần thứ 2, nghiên cứu cơ bản trong sinh học, nông nghiệp, y học - Huế 25 - 26/7/2003) [713 – 716].
Theo Bùi Lan Anh và Ngô Xuân Bình, đã nghiên cứu điều tra một số sâu bệnh hại nhãn vải tại Thái Nguyên năm 2002 – 2003. Kết quả cho thấy sâu hại nhãn vải có 19 loài, trong đó hại lá 12 loài, hại thân cành 1 loài và 6 loài hại hoa và quả. Trong số những loài sâu hại đáng chú ý là sâu đục gân lá tỷ lệ hại trung bình 5 - 10% , nơi bị hại nhiều nhất có khi lên tới 19 - 26%. Sâu đục quả tỷ lệ hại trung bình 0,5%, nơi bị hại nặng tỷ lệ hại trên 10%. Các loài bọ xít, sâu ăn lá, sâu đục thân cành cây gây hại có tính chất cục bộ. (Một số kết quả điều tra sâu bệnh hại nhãn vải tại Thái Nguyên năm 2002 – 2003. Tạp chí Bảo vệ thực vật số 6/2003).
TS.Nguyễn Xuân Thành - Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, đã đóng góp cho nghành nghiên cứu côn trùng học nói chung và côn trùng trên cây vải nói riêng nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.
Năm 1998 – 1999, Nguyễn Xuân Thành nghiên cứu ở nông trường Bình Khê , xã Tràng Lương , huyện Đông Triều, Quảng Ninh và nông trường Hà Trung, Thanh Hoá. Số lượng loài thu được là 77 loài sâu hại và 1 loài nhện hại, trong đó : Bộ cánh phấn có 39 loài, bộ cánh đều 13 loài, bộ hai cánh có 1 loài, bộ cánh nửa 4 loài, bộ cánh cứng 19 loài. Côn trùng có ích gồm 14 loài côn trùng ăn thịt (thuộc 6 bộ và 8 họ ) và 13 loài côn trùng ký sinh (11 loài thuộc bộ cánh màng , 2 loài thuộc bộ hai cánh). Nhện hại mới phân loại được một loài là Eriophies litchi Keifer thuộc họ Eriophydae, số lượng loài nhện ăn thịt thu được là 10 loài. Ông đã nghiên cứu sinh học sinh thái về loài sâu cuốn lá đầu đen và sâu cuốn lá đầu nâu, nhóm sâu nhớt, nhóm sâu đo xanh, sâu đo hình que đầu hai sừng, sâu đo nâu xám , nhóm bướm chích quả , sâu đục cuống quả , sâu đục gân lá, bọ cánh cứng , bọ cánh gân nâu, bọ hung , bọ xít nhãn vải , bọ mắt vàng , nhện lông nhung, câu cấu, bọ dừa, ong ký sinh trứng bọ xít nhãn vải và ong ký sinh sâu non bộ cánh vẩy. (Côn trùng và VSV trên cây vải thiều tại Quảng Ninh và Thanh Hoá - Biện pháp lợi dụng và điều khiển chúng. Kỷ yếu hội nghị khoa học, công nghệ và môi trường các tỉnh miền núi phía Bắc lần thứ 7).
Năm 2000, Nguyễn Xuân Thành nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của hai loài bọ mắt vàng Chrysopa sp. và Ankylopteryx sp. (Chrysopidae) trên cây vải thiều Đông Triều, Quảng Ninh. Kết quả cho thấy hai loài bọ mắt vàng đều thuộc phân họ Chrysopinae Esben-Petesen 1918, họ Chrysopidae, bộ Neuroptera. Cả hai loài tồn tại và phát triển quanh năm trên cây vải, mật độ cao nhất vào tháng cuối xuân , đầu hè, khi mật độ thức ăn và các yếu tố sinh thái khác thuận lợi cho chúng. Mật độ cao nhất vào cuối tháng 4 đầu tháng 5, cuối tháng 5và từ 15 đến 20 tháng 6. Đây là 2 loài côn trùng ăn thịt sau hại quan trọng trong việc điều hoà mật độ chủng quần sâu hại vải, góp phần đáng kể hạn chế tác hại của sâu gây ra. (Một số đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của hai loài bọ mắt vàng Chrysopa sp. và Ankylopteryx sp. (Chrysopidae) trên cây vải thiều tại Đông Triều Quảng Ninh_ Tạp chí Sinh học số 3/2000) [44_47].
Năm 2002, Nguyễn Xuân Thành bước đầu nghiên cứu về thành phần các loài côn trùng và nhện trên vải tại Hà Nội và vùng phụ cận. Qua điều tra cho thấy thành phần côn trùng và nhện tương đối phong phú. Tổng số loài hiện đã thu được 109 loài, trong đó côn trùng và nhện thu được là 54 loài. Những loài nguy hiểm nhất có 12 loài. Côn trùng có ích (Ky sinh và bắt mồi) thu được là 21 loài, có ý nghĩa nhất là bọ mắt vàng, bọ rùa 18 chấm, ong ký sinh kén trắng. Nhện bắt mồi thu được 34 loài. Từ kết quả thu được nhận thấy sự tương quan giữa các loài có hại và có lợi gần như nhau và cho gợi cho chúng ta có ý thức hơn trong việc sử dụng các biện pháp phòng trừ các loài sâu hại sao cho vừa đạt hiệu quả phòng trừ tốt mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái, bảo vệ được sức khoẻ cộng đồng. ( Kết quả nghiên cứu bước đầu về thành phần các loài côn trùng và nhện trên vải tại Hà Nội và vùng Phụ cận_ Kỷ yếu hội thảo quốc gia về khoa học và công nghệ bảo vệ thực vật_NXB Nông nghiệp 2002 ) [274_278].
Với chủ trương của Đảng xoá đói giảm nghèo, phát triển và mở rộng kinh tế trang trại ổn định trật tự an ninh xã hội vì thế mà diện tích trồng vải ngày càng tăng dẫn đến mật độ côn trùng hại nhãn vải cũng gia tăng. Mục đích nghiên cứu phòng trừ thành phần côn trùng hại vải, năm 2003, Nguyễn Xuân Thành đã nghiên cứu thành phần côn trùng hại nhãn vải và thành phần thiên địch của chúng ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả sau nhiều năm nghiên cứu cho thấy thành phần côn trùng hại và thiên địch của chúng trên nhãn vải rất phong phú và đa dạng. Tổng số loài gây hại hiện đã biết là 99 loài trong đó có 98 loài côn trùng và 1 loài nhện. Các loài này thuộc 5 bộ sau: Coleoptera, Lepidoptera, Hemiptera, Homoptera và bộ nhện nhỏ Acarina. Bộ cánh cứng có 30 loài thuộc 9 họ , chiếm tới 33,33% trong tổng số loài bắt gặp. Bộ Lepidoptera có 42 loài chiếm 42,42% tổng số loài bắt được. Bộ cánh đều Homoptera có 6 họ , 11 loài chiếm 11,11%. Bộ cánh nửa Hemiptera có số lượng ít nhất chỉ có 6 loài trong 4 họ , chiếm tỷ lệ thấp , chỉ có 6,66%. Bộ nhện nhỏ Acarina thuộc lớp nhện chỉ mới thu được 1 loài, chiếm số lượng họ ít nhất trong các loài gây