Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới trong những thập niên gần đây là sự phát triển rầm rộ và sôi động trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Có thể thấy rằng phấn đấu cho một nền tài chính – ngân hàng ngày càng hưng thịnh hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm chú ý cũng như trí tuệ và tri thức của nhân loại. Cùng hoà nhịp với xu thế của thế giới cũng như những chuyển biến tích cực của đất nước, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương Mại quốc tế (WTO), hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những sự thay đổi đáng kể về cấu trúc, quy mô và về sự đa dạng hoá các loại hình tổ chức. Hệ thống ngân hàng thương mại được kỳ vọng là sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong việc khơi thông những dòng chảy về vốn, đầu tư và các dịch vụ tài chính để phục vụ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà sự hội nhập kinh tế thế giới mang lại, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động. Và một trong những rủi ro quan trọng nhất và có tác động lớn nhất đến hoạt động ngân hàng là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với ngân hàng cũng như sự ổn định của cả nền kinh tế, đặc biệt trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, các tổ chức tín dụng về cơ bản vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình thực hiện các chính sách tín dụng chặt chẽ và các thông lệ tín dụng tốt nhất.
Thực tế, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là một ngân hàng lớn mạnh, có kinh nghiệm và có uy tín trên thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam. Tuy vậy, trong thời gian gần đây do mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, đặc biệt do sự biến động không ngừng của thị trường thị trường khu vực và trên thế giới, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công nói riêng cũng đang đối mặt với những khó khăn về rủi ro tín dụng. Sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công, trên cơ sở những kiến thức đã được tích lũy ở trường và qua nghiên cứu tài liệu, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập, với mong muốn phân tích các nguyên nhân của rủi ro tín dụng để góp phần đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế các rủi ro tín dụng và đóng góp một vài ý kiến nhỏ của mình nhằm cùng tìm ra lởi giải đáp khoa học, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công”
Kết cấu Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Do kiến thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên bài viết sẽ không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Với lòng biết ơn sâu sắc, em mong muốn nhận được những ý kiến phê bình, góp ý quý báu của các thầy cô, các cán bộ ngân hàng và các bạn giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn.
82 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TRONG KHOÁ LUẬN
Trang
Sơ đồ 1.
Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
24
Sơ đồ 2.
Mô hình tổ chức của Ngân hàng Ngoại Thương
Việt Nam
31
Sơ đồ 3.
Mô hình tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công
32
Biểu đồ 1.
Tình hình huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 - 2007
Biểu đồ 2.
Tình hình cho vay của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 - 2007
39
Biểu đồ 3.
Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu của
chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
giai đoạn 2003 - 2007
40
Biểu đồ 4.
Số lượng thẻ chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương
Thành Công phát hành giai đoạn 2003 - 2007
43
Biểu đồ 5.
Số lượng khách hàng của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 – 2007
45
Bảng 1.
Dư nợ tín dụng chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương
Thành Công
46
Bảng 2.
Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế của
chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
giai đoạn 2003 - 2007
47
Bảng 3.
Phân loại tín dụng theo ngành nghề của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
48
Bảng 4.
Phân loại tín dụng phân theo kì hạn tại chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 - 2007
49
Bảng 5.
Phân loại tín dụng theo chất lượng của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
giai đoạn 2003 - 2007
50
Bảng 6.
Các khoản mục nợ có vấn đề của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công giai đoạn 2003 - 2007
53
Bảng 7.
Nợ quá hạn phân theo thời gian của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 – 2007
54
Bảng 8.
Nợ quá hạn phân theo khả năng thu hồi tại chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 - 2007
55
Bảng 9.
Nợ quá hạn phân theo loại tiền của chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 2003 - 2007
56
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới trong những thập niên gần đây là sự phát triển rầm rộ và sôi động trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng. Có thể thấy rằng phấn đấu cho một nền tài chính – ngân hàng ngày càng hưng thịnh hiện đang thu hút nhiều sự quan tâm chú ý cũng như trí tuệ và tri thức của nhân loại. Cùng hoà nhịp với xu thế của thế giới cũng như những chuyển biến tích cực của đất nước, đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương Mại quốc tế (WTO), hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những sự thay đổi đáng kể về cấu trúc, quy mô và về sự đa dạng hoá các loại hình tổ chức. Hệ thống ngân hàng thương mại được kỳ vọng là sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong việc khơi thông những dòng chảy về vốn, đầu tư và các dịch vụ tài chính để phục vụ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà sự hội nhập kinh tế thế giới mang lại, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động. Và một trong những rủi ro quan trọng nhất và có tác động lớn nhất đến hoạt động ngân hàng là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với ngân hàng cũng như sự ổn định của cả nền kinh tế, đặc biệt trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, các tổ chức tín dụng về cơ bản vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình thực hiện các chính sách tín dụng chặt chẽ và các thông lệ tín dụng tốt nhất.
Thực tế, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là một ngân hàng lớn mạnh, có kinh nghiệm và có uy tín trên thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam. Tuy vậy, trong thời gian gần đây do mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, đặc biệt do sự biến động không ngừng của thị trường thị trường khu vực và trên thế giới, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công nói riêng cũng đang đối mặt với những khó khăn về rủi ro tín dụng. Sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công, trên cơ sở những kiến thức đã được tích lũy ở trường và qua nghiên cứu tài liệu, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập, với mong muốn phân tích các nguyên nhân của rủi ro tín dụng để góp phần đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế các rủi ro tín dụng và đóng góp một vài ý kiến nhỏ của mình nhằm cùng tìm ra lởi giải đáp khoa học, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công”
Kết cấu Khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Do kiến thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu chưa nhiều nên bài viết sẽ không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Với lòng biết ơn sâu sắc, em mong muốn nhận được những ý kiến phê bình, góp ý quý báu của các thầy cô, các cán bộ ngân hàng và các bạn giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp, em xin gửi lời cám ơn chân thành tới thầy giáo-PGS.TS Nguyễn Hữu Tài vì sự hướng dẫn và những nhận xét quý báu của thầy trong suốt quá trình em thực hiện Khóa luận tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành cám ơn các cán bộ của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Thành Công, đặc biệt là Chị Đậu Thị Thúy Vân, Trưởng phòng Quan hệ khách hàng; Anh Phí Đặng Hùng, Phó phòng Quan hệ Khách hàng. Nếu không có khoảng thời gian thực tập cùng những lời chỉ bảo của thầy giáo và các anh chị thì em khó có thể thực hiện được Khóa luận tốt nghiệp này. Sau cùng em xin được gửi lời cám ơn tới tất cả các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính, những người đã dạy bảo em trong suốt bốn năm học vừa qua.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vay. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị thặng dư trên thị trường.
Giáo trình Ngân hàng Thương mại của trường Đại học Kinh tế Quốc dân định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một doanh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để đầu tư thu lợi nhuận như cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Lượng vốn của các ngân hàng thường nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn của các khách hàng, bởi thế ngân hàng thương mại phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Những nguồn vốn này là cơ sở để ngân hàng thương mại đầu tư lại cho nền kinh tế. Đây là chính nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Các ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ yếu là nhận gửi và cho vay. Chúng đóng góp vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có khả năng kinh doanh thu lợi, chúng đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng, hữu hiệu thông qua hoạt động tín dụng.
1.1.2.1. Đối với Nhà nước
Hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tín dụng ngân hàng là công cụ để ngân hàng điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân hàng đã tạo nên cung tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng. Như ta đã biết, một khoản tiền ban đầu khi gửi vào ngân hàng, sau khi đã trừ đi khối lượng dự trữ, sẽ được ngân hàng sử dụng để cấp tín dụng. Sau đó, khoản tiền này lại quay trở lại ngân hàng một cách lặp đi lặp lại. Khối lượng tiền gửi được ghi tại ngân hàng sẽ tăng lên so với số tiền gửi ban đầu. Vì thế, cung tiền trong nền kinh tế tăng lên. Tỷ lệ cấp tín dụng của ngân hàng so với khối lượng vốn huy động càng lớn thì mức cung tiền tệ hay khối lượng tiền tệ thực trong lưu thông càng lớn. Do vậy, bằng các chính sách của mình, Ngân hàng Nhà nước dễ dàng thay đổi lượng tiền trong lưu thông bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng góp phần tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển. Khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho một bộ phận lao động không nhỏ trong xã hội có công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, làm hạn chế các tệ nạn trong xã hội. Đây cũng là một nhân tố thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Ngoài ra, với chức năng là chiếc cầu nối trung gian giữa những người cho vay đầu tiên và những người đi vay cuối cùng. Tín dụng ngân hàng đã tập trung một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó đã làm giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông. Nếu lượng vốn này tồn đọng mà không được huy động một cách hợp lý và kịp thời thì có thể ảnh hưởng đến tình trạng lưu thông tiền tệ, dẫn đến mất cân đối trong quan hệ tiền - hàng và hệ thống giá cả bị biến động là điều khó tránh khỏi. Bởi vậy, tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả.
1.1.2.2. Đối với ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Phần lớn vốn do Ngân hàng thương mại huy động được là dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng cũng là nguồn thu nhập chủ yếu của các Ngân hàng thương mại. Bởi vậy, hoạt động tín dụng có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để Ngân hàng thương mại phát triển các hoạt động khác như huy động vốn, dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
1.1.2.3. Đối với các doanh nghiệp
Với chức năng chính là “đi vay để cho vay”, ngân hàng đứng ra huy động tiền gửi từ dân cư và các doanh nghiệp. Mỗi cá nhân và tổ chức, khi có nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời, có thể gửi vào ngân hàng như một sự lựa chọn an toàn và là quyết định đầu tư ít rủi ro. Ngân hàng dùng số vốn tạm thời này để cung cấp cho các cá nhân và các doanh nghiệp khác đang có nhu cầu về vốn. Do có ngân hàng đứng ra làm trung gian cho quá trình luân chuyển vốn nên các nguồn vốn có thể được tập trung và đến với người cần vốn, giảm được các chi phí xã hội và đảm bảo ba bên cùng có lợi. Chính các lợi ích đó đã khuyến khích các cá nhân, tổ chức gửi vốn vào ngân hàng. Hợp đồng tín dụng càng phát triển thì càng thúc đẩy quá trình tích tụ vốn.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những nguồn đi vay là từ ngân hàng. Đây là nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về cả số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao uy tín của mình để đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông tin, định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả của các dự án và phương án.
Đứng trước xu thế quốc tế hoá, các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán với các thành phần kinh tế trong nước mà còn quan hệ xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài. Tín dụng ngân hàng có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông qua hình thức bảo lãnh, cho vay đối với doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế.
1.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều hình thức tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về các loại hình tín dụng, người ta có thể phân loại tín dụng theo một số tiêu thức nhất định. Theo điều 49 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng được thể hiện dưới các hình thức sau:
1.1.3.1. Hình thức cho vay
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống, cho vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
1.1.3.2. Hình thức chiết khấu
Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông theo quy định của Pháp luật. Người giữ các giấy tờ có gía này nếu cần tiền mặt khi các giấy tờ có giá chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng thương mại để xin chiết khấu. “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền lợi và lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ có giá đó cho tổ chức tín dụng” ( Điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng ).
Như vậy về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác là tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng chuyển tiền cho người chủ sở hữu các giấy tờ có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán. Khách hàng muốn bán thương phiếu cho ngân hàng phải lập đầy đủ thủ tục giống như vay vốn, làm đơn xin chiết khấu thương phiếu, ngâ hàng kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành thương phiếu, nếu được chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường các ngân hàng chỉ chiết khấu các thương phiếu có thời gian đến ngắn hạn từ 3 – 6 tháng. Ưu điểm đặc biệt của hình thức tín dụng chiết khấu là nếu trong trường hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể đem các giấy tờ có giá đó đến Ngân hàng Trung ương xin tái triết khấu.
1.1.3.3. Hình thức nhận trả
Là hình thức tín dụng mà ngân hàng nhận trả nợ thay cho người phát hành kỳ phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không có khả năng thanh toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sở hữu kỳ phiếu rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ dàng đem kỳ phiếu đi chiết khấu. Để có được sự đảm bảo đó, doanh nghiệp phát hành kỳ phiếu sẽ phải trả cho ngân hàng một khoản hoa hồng. Trong hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kỳ phiếu và ngân hàng có quy định người phát hành kỳ phiếu phải giao số tiền của kỳ phiếu chậm nhất trước ngày kỳ phiếu đến hạn. Ngân hàng phải thẩm định khả năng thanh toán của doanh nghiệp trước khi ngân hàng đảm bảo cho doanh nghiệp đó phát hành kỳ phiếu.
1.1.3.4. Tín dụng trả nhiều lần
Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều thời hạn, mỗi lần trả nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi. Loại tín dụng này rất phù hựp với đặc điểm sử dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần. Tín dụng trả nhiều lần bao gồm bao gồm cácloại tín dụng ngắn, trung và dài hạn. Doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả nợ cũng như số lãi và gốc cho mỗi lần trả nợ. Tín dụng trả nhiều lần có thị trường rộng lớn nhưng cần có điều kiện đảm baỏ để thực hiện loại hình cho vay này.
1.1.3.5. Hình thức bảo lãnh
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận bảo lãnh dùng uy tín của mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua hàng ( người được bảo lãnh ) không có khả năng thanh toán nợ.
Có 2 loại bảo lãnh:
Bảo lãnh bằng thư: ngân hàng phát hành một thư bảo lãnh để khách hàng có thể mua vật tư hàng hoá, bao thầu ... Ttrong thư bảo lãnh ngân hàng cam kết sẽ trả thay cho khách hàng khi khách hàng không trả tiền, nộp thuế...
Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: ngân hàng có thể dùng cách ký chấp nhận vào một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng hay do một ngân hàng lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền cuả một ngân hàng khác còn là cách san sẻ rủi ro cho nhiều ngân hàng.
1.1.3.6. Hình thức cầm cố bất động sản
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động sản như nhà cửa, đất đai, xưởng máy.... Tài sản cầm cố phải được chuyển cho người cho vay, do đó người cho vay là người sở hữu trực tiếp còn gnười vay chỉ còn là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố.
1.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.1. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi. Kinh tế thị trường làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, bình đẳng hoá hoạt động của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau. Rủi ro – tuy là là những khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường cũng như trong quá trình cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không nằm ngoài tác động trên, với các hoạt động ngân hàng hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng được coi là một loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, do đó thường xuyên đối mặt với nhiều loại rủi ro. Các ngân hàng được coi là thành công khi mức độ rủi ro họ tham gia vào ở mức hợp lý, được kiểm soát trong phạm vi và năng lực tài chính của họ. Có nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro của các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh. Thật khó mà thâu tóm được một định nghĩa rủi ro chuẩn xác cho mọi môi trường kinh doanh cũng như mọi giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội. Tuy khó tìm được một định nghĩa rủi ro hoàn hảo, song có thể biết được rằng rủi ro thường có hai đặc tính sau:
- Thứ nhất, biên độ rủi ro, đó là sự thiệt hại từ rủi ro gây ra ở mức độ nào.
- Thứ hai, tần số xuất hiện của rủi ro nhiều hay ít.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng thương mại cũng gánh chịu các rủi ro do các tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên như các doanh nghiệp khác. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng về cơ bản có thể chia thành 2 loại: rủi ro môi trường và rủi ro đặc thù.
(1) Rủi ro môi trường hay còn gọi là rủi ro thị trường:
Rủi ro về môi trường luôn luôn tồn tại trong tổ chức và ngoài tổ chức, hay nói cách khác, rủi ro môi trường gồm 2 loại: rủi ro môi trường vĩ mô và rủi ro môi trường cạnh tranh.
+ Rủi ro môi trường vĩ mô: Môi trường mà ngân hàng hoạt động chứa đầy muôn vàn rủi ro, chúng tác động đến ngân hàng bằng nhiều cách: hoặc là suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng, hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại về tài chính. Những rủi ro này rất khoa kiểm soát nên chúng được gọi là “rủi ro không kiểm soát được”. Trong thực tế, người ta có thể kiểm soát chúng ở mức độ hạn chế trên cơ sở dự báo. Các rủi ro môi trường vĩ mô mà ngân hàng thường gặp là:
- Rủi ro tự nhiên hay rủi ro bất khả kháng: lũ lụt, hỏa hoạn, động đất,…
- Rủi ro về luật pháp liên quan đến việc thay đổi các luật lệ gây bất lợi cho ngân hàng. Ở các nước đang phát triển, đây là rủi ro có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, do thiếu các quy định cần thiết.
- Rủi ro về kinh tế liên quan đến sự vận động của nền kinh tế và chu kỳ kinh doanh: lạm phát, thất nghiệp, suy thoái kinh tế, khủng hoảng…Ảnh hưởng của các yếu tố này đến ngân hàng thường rất lớn.
- Rủi ro về điều chỉnh: nhằm thực hiện các chính sách vĩ mô, các nhà lãnh đạo đưa ra các chính sách tiền tệ, lãi suất,… đôi khi gây thiệt hại cho ngân hàng.
+ Rủi ro môi trường cạnh tranh: một ngân hàng trong hoạt động kinh doanh thường chịu tác động của khách hàng hoặc các đối thủ từ nhiều phía, từ đó luôn nhận rất nhiều c