Cuối những năm 80, khi một loạt các công ty của Hoa Kỳ bị đổ vỡ, người ta đã xác minh được nguyên nhân chính của sự đổ vỡ là do hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty này yếu kém. Kể từ đó, khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ ra đời và tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng hiện đại trên thế giới ngày càng quan tâm đến mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang từng bước hội nhập, kiểm soát nội bộ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Kiểm soát nội bộ giúp các nhà quản trị quản lý hữu hiệu và hiệu quả hơn các nguồn lực kinh tế của ngân hàng mình như: con người, tài sản, vốn, . góp phần hạn chế tối đa những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh, đồng thời giúp ngân hàng xây dựng được một nền tảng quản lý vững chắc phục vụ cho quá trình mở rộng, và phát triển đi lên của ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cung cấp tín dụng là một chức năng cơ bản của NHTM. Hầu hết các ngân hàng dư nợ thường chiếm 50% đến 80% tổng tài sản có và 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng [13]. Rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi các ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng, thể hiện qua việc ngân hàng không thu hồi được vốn vay, có thể là do sự buông lỏng, thiếu quản lý, cấp tín dụng không minh bạch, áp dụng một chính sách kém hiệu quả, sự biến động bất lợi của nền kinh tế thị trường Hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy rõ tình trạng khó khăn về tài chính của các NHTM thường phát sinh từ những khoản cho vay khó đòi (sự đổ vỡ Quỹ tín dụng, NH cổ phần trong những năm 1989-1990 do chất lượng các khoản vay yếu kém, không thu hồi được; những yếu kém trong quản trị và những vụ án lớn liên quan đến việc cho vay nợ lên đến hàng ngàn tỷ đồng của các NHTM Nhà nước từ năm 2000 trở về trước [5]) đã chứng minh vấn đề kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam là rất cần thiết.
Kiểm soát nội bộ đối với NHTM Việt Nam là lĩnh vực còn mới về cả phương diện lý luận cũng như phương pháp, biện pháp triển khai trong thực tiễn; việc xây dựng khung cơ chế và một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực hiệu quả đang còn là vấn đề nghiên cứu của các NHTM.
Chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Quảng Bình mới được nâng cấp thành Chi nhánh cấp 1, hoạt động trên địa bàn có nền kinh tế chưa phát triển nên còn gặp nhiều khó khăn. Với bản chất phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tín dụng được coi là đối tượng quan trọng trong công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại Chi nhánh.
Với mong muốn được tiếp cận thực tế công tác kiểm soát quy trình cho vay khách hàng doanh nghiệp của một ngân hàng cụ thể, đồng thời ứng dụng những kiến thức đã học trong nhà trường, so sánh với thực tiễn, nắm bắt, mở rộng hiểu biết , em đã quyết định chọn đề tài “Kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Quảng Bình”.
92 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1246 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đề tài đi vào nghiên cứu nội dung Kiểm soát nội bộ quy trình cho vay khách hàng doanh nghiệp.
Khóa luận tìm hiểu thực trạng việc kiểm soát quy trình cho vay thông qua việc áp dụng, tuân thủ quy chế, quy trình cho vay của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ban hành, đồng thời xem xét tình hình tín dụng cho vay trong 3 năm 2007 – 2009 tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Quảng Bình. Từ đó nhận xét những ưu nhược điểm và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Chi nhánh.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự cần thiết của để tài nghiên cứu
Cuối những năm 80, khi một loạt các công ty của Hoa Kỳ bị đổ vỡ, người ta đã xác minh được nguyên nhân chính của sự đổ vỡ là do hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty này yếu kém. Kể từ đó, khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ ra đời và tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng hiện đại trên thế giới ngày càng quan tâm đến mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang từng bước hội nhập, kiểm soát nội bộ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Kiểm soát nội bộ giúp các nhà quản trị quản lý hữu hiệu và hiệu quả hơn các nguồn lực kinh tế của ngân hàng mình như: con người, tài sản, vốn, …. góp phần hạn chế tối đa những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh, đồng thời giúp ngân hàng xây dựng được một nền tảng quản lý vững chắc phục vụ cho quá trình mở rộng, và phát triển đi lên của ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cung cấp tín dụng là một chức năng cơ bản của NHTM. Hầu hết các ngân hàng dư nợ thường chiếm 50% đến 80% tổng tài sản có và 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng [13]. Rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi các ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng, thể hiện qua việc ngân hàng không thu hồi được vốn vay, có thể là do sự buông lỏng, thiếu quản lý, cấp tín dụng không minh bạch, áp dụng một chính sách kém hiệu quả, sự biến động bất lợi của nền kinh tế thị trường… Hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy rõ tình trạng khó khăn về tài chính của các NHTM thường phát sinh từ những khoản cho vay khó đòi (sự đổ vỡ Quỹ tín dụng, NH cổ phần trong những năm 1989-1990 do chất lượng các khoản vay yếu kém, không thu hồi được; những yếu kém trong quản trị và những vụ án lớn liên quan đến việc cho vay nợ lên đến hàng ngàn tỷ đồng của các NHTM Nhà nước từ năm 2000 trở về trước [5]) đã chứng minh vấn đề kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam là rất cần thiết.
Kiểm soát nội bộ đối với NHTM Việt Nam là lĩnh vực còn mới về cả phương diện lý luận cũng như phương pháp, biện pháp triển khai trong thực tiễn; việc xây dựng khung cơ chế và một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực hiệu quả đang còn là vấn đề nghiên cứu của các NHTM.
Chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Quảng Bình mới được nâng cấp thành Chi nhánh cấp 1, hoạt động trên địa bàn có nền kinh tế chưa phát triển nên còn gặp nhiều khó khăn. Với bản chất phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tín dụng được coi là đối tượng quan trọng trong công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại Chi nhánh.
Với mong muốn được tiếp cận thực tế công tác kiểm soát quy trình cho vay khách hàng doanh nghiệp của một ngân hàng cụ thể, đồng thời ứng dụng những kiến thức đã học trong nhà trường, so sánh với thực tiễn, nắm bắt, mở rộng hiểu biết , em đã quyết định chọn đề tài “Kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Quảng Bình”.
Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ
Tìm hiểu thực trạng việc kiểm soát hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Quảng Bình
Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác cho vay
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác kiểm soát hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Quảng Bình
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: đề tài nghiên cứu trên cơ sở các thông tin số liệu trong 3 năm 2007 – 2009; riêng thông tin số liệu về dự án đầu tư từ năm 2005 đến năm 2009
Về không gian: đề tài được nghiên cứu trong phạm vi chi nhánh NH ĐT&PT Bắc Quảng Bình
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, suy luận
Phương pháp so sánh
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP
Những vấn đề chung về hệ thống kiểm soát nội bộ.
Khái niệm
Hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ những chính sách và thủ tục kiểm soát do Ban giám đốc của đơn vị thiết lập nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẻ và hiệu quả của các hoạt động trong khả năng có thể. (IAS 400)
Kiểm soát nội bộ theo định nghĩa của COSO, là một quy trình chịu ảnh hưởng bởi Hội đồng quản trị, các nhà quản lý và các nhân viên khác của một tổ chức, được thiết kế để cung cấp một sự bảo đảm hợp lý trong việc thực hiện các mục tiêu sau:
Hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động
Tính chất đáng tin cậy của báo cáo tài chính
Sự tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành
Còn theo Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản của đơn vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin; bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động
Mục tiêu, nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ.
a. Mục tiêu:
Mục tiêu kết quả hoạt động: Hiệu quả và hiệu năng hoạt động
- Sử dụng có hiệu quả các tài sản và các nguồn lực khác
- Hạn chế rủi ro
- Đảm bảo sự phối hợp, cùng làm việc của toàn bộ nhân viên trong doanh nghiệp để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp với hiệu năng và sự nhất quán.
- Tránh được các chi phí không đáng có/ việc đặt các lợi ích khác (của nhân viên, của khách hàng…) lên trên lợi ích của doanh nghiệp.
Mục tiêu thông tin: Độ tin cậy, tính hoàn thiện và cập nhật thông tin tài chính và quản lý
- Các báo cáo cần thiết được lập đúng hạn và đáng tin cậy để râ quyết định nội bộ trong doanh nghiệp.
- Thông tin gửi đến Ban TĐ, HĐQT, các cổ đông và các cơ quan giám sát phải có đủ chất lượng và tính nhất quán.
- BCTC và các báo cáo quản lý khác được trình bày một cách hợp lý và dựa trên các nguyên tắc kế toán đã được xác định rõ ràng.
Mục tiêu tuân thủ: Sự tuân thủ pháp luật và quy định. Đảm bảo mọi hoạt động của doanh nghiệp đều tuân thủ
- Các luật và quy định
- Các yêu cầu về giám sát
- Các chính sách và quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp
b. Nhiệm vụ:
- Ngăn ngừa các sai phạm trong hệ thống xử lý nghiệp vụ
- Phát hiện kịp thời các sai phạm trong quá trình xử lý nghiệp vụ
- Bảo vệ đơn vị trước những thất thoát có thể tránh
- Đảm bảo việc chấp hành chính sách kinh doanh
Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ.
Môi trường kiểm soát.
Sự kiểm soát hữu hiệu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của người quản lý đối với vấn đề kiểm soát. Nếu nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra kiểm soát là quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi hoạt động trong đơn vị thì mọi thành viên của đơn vị đó sẽ nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra kiểm soát và tuân thủ mọi quy định cũng như chế độ đề ra. Ngược lại nếu hoạt động kiểm tra kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn các quy chế về kiểm soát nội bộ sẽ không được vận hành một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn vị.
Các nhân tố trong môi trường kiểm soát bao gồm:
Đặc thù về quản lý:
Các đặc thù về quản lý đề cập tới các quan điểm khác nhau trong điều hành hoạt động doanh nghiệp của các nhà quản lý. Các quan điểm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách, chế độ, các quy định và cách thức tổ chức kiểm tra kiểm soát trong doanh nghiệp. Bởi vì chính các nhà quản lý này, đặc biệt là các nhà quản lý cấp cao nhất sẽ phê chuẩn các quyết định, chinh sách và thủ tục kiểm soát sẽ áp dụng tại doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong doanh nghiệp sẽ góp phần tạo ra môi trường kiểm soát tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới trong việc ban hành các quyết định, triển khai các quyết định đó cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định đó trong toàn bộ doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức hợp lý còn góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho không bị chồng chéo hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch giữa các chức năng; bảo đảm sự độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau trong các bước thực hiện công việc.
Chính sách nhân sự:
Sự phát triển của mọi doanh nghiệp luôn gắn liền với đội ngũ nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong môi trương kiểm soát cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của doanh nghiệp. Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều quá trình kiểm soát có thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu đề ra của kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, mặc dù doanh nghiệp có thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát chặt chẻ nhưng với đội ngũ nhân viên kém năng lực trong công việc và thiếu trung thực về phẩm chất đạo đức thì hệ thống kiểm soát nội bộ không thể phát huy hiệu quả.
Tóm lại, với những lý do nêu trên, các nhà quản lý doanh nghiệp cần có những chính sách cụ thể, rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên. Việc đào tạo. bố trí cán bộ và đề bạt nhân sự phải phù hợp với năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức, đồng thời phải mang tính kế tục và liên tiếp.
Công tác kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch và dự toán, bao gồm các kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, thu chi quỹ, kế hoạch hay dự toán đầu tư, sửa chữa tài sản cố định, đặc biệt là kế hoạch tài chính gồm những ước tính cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự luân chuyển tiền trong tương lai là những nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát. Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu. Vì vậy, trong thực tế các nhà quản lý thường quan tâm xem xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi những nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch đã lập nhằm phát hiện những vấn đề bất thường và xử lý, điều chỉnh kế hoạch kịp thời.
Tính trung thực và giá trị đạo đức:
Để tạo được những ý thức này trong đội ngũ cán bộ nhân viên của tổ chức, các nhà quản lý cao cấp cần phải xây dựng, ban hành và thông tin rộng rãi các hướng dẫn về những nguyên tắc đạo đức, hạnh kiểm liên quan đến mọi cấp bậc trong tổ chức. Nhà quản lý còn phải tự mình làm gương cho cấp dưới về việc tuân thủ các nguyên tắc này. Một vấn đề cũng rất quan trọng là phải loại bỏ những động cơ dẫn người nhân viên đến sai phạm, thí dụ việc yêu cầu nhân viên phải hoàn thành công việc trong một thời hạn quá ngắn có thể dẫn đến sự dối trá hoặc báo cáo không trung thực.
Uỷ ban kiểm soát:
Uỷ ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị như thành viên của Hội đồng quản trị nhưng không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý và những chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát. Uỷ ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty
Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ
Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính
Dung hoà những bất đồng (nếu có) giữa Ban giám đốc với các kiểm toán viên bên ngoài.
Như vậy, môi trường kiểm soát có một ảnh hưởng rất quan trọng đến quá trình thực hiện và kết quả của các thủ tục kiểm soát. Các thủ tục kiểm soát có thể sẽ không đạt được các mục tiêu của mình hoặc chỉ còn là hình thức trong một môi trường kiểm soát yếu kém. Ngược lại, một môi trường kiểm soát tốt có thể hạn chế được phần nào sự thiếu sót của các thủ tục kiểm soát. Tuy nhiên, môi trường kiểm soát không thể thay thế cho các thủ tục kiểm soát cần thiết.
Hệ thống kế toán
Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ ké toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng tổng hợp, cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Mục đích của một hệ thống kế toán của một tổ chức là sự nhận biết, thu thập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức đó, thoả mãn chức năng thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm soát chi tiết:
Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép những nghiệp vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị
Sự phê chuẩn: bảo đảm mọi nghiệp vụ xảy ra được phê chuẩn hợp lý
Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
Sự đánh giá: bảo đảm không có sai phạm trong việc tính toán các khoản giá và phí
Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài khoản và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách kế toán
Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được thực hiện kịp thời theo quy định
Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghi vào sổ phụ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Đánh giá rủi ro
Dưới một góc độ nào đó, kiểm soát bao gồm việc nhận dạng, đánh giá và quản lý các rủi ro có thể phát sinh. Kinh doanh là chấp nhận rủi ro. Trong thực tê, không có biện pháp nào có thẻ giảm được rủi ro xuống bằng không. Vấn đề là các nhà quản lý phải quyết định rằng rủi ro nào có thể chấp nhận và phải làm gì để quản lý các rủi ro. Để có thể làm được việc này, người quản lý cần phải:
Thiết lập các mục tiêu của tổ chức, kể cả mục tiêu chung của tổ chức và mục tiêu riêng cho từng hoạt động. Việc xác định mục tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro vì một sự kiện chỉ là rủi ro đối với tổ chức khi nó gây ảnh hưởng xấu đến mục tiêu của tổ chức. Do đó, có những sự kiện là rủi ro đối với tổ chức này nhưng không phải là rủi ro đối với tổ chức khác.
Nhận dạng và phân tích rủi ro khiến cho các mục đích không thể thực hiện. Các rủi ro có thể phát sinh từ môi trường hoạt động (sự cạnh tranh, sự tiến bộ kỹ thuật, các chính sách nhà nước…) và từ các chính sách của đơn vị (chính sách mở rộng thị trường, chính sách đổi mới kỹ thuật,…).
Thiết lập các cơ chế nhận dạng và đối phó với các rủi ro phát sinh do các biến động trong môi trường (sự thay đổi chính sách nhà nước, sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh hoặc các sản phẩm thay thế, các điều kiện kinh tế xã hội thay đổi…). Thí dụ, đơn vị cần theo dõi các chính sách nhà nước liên quan đến các ngành nghề của mình qua các quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội nghề nghiệp… Khi có bất kỳ chính sách nào liên quan, cần phải biết và phản ứng nhanh chóng.
Hoạt động kiểm soát
Các hoạt động kiểm soát do các nhà quản lý xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng và chế độ uỷ quyền
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm:
Ngưyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm dụng quyền hạn. Ví dụ trong tổ chức nhân sự không thể bố trí các nhiệm vụ phê chuẩn và thực hiện, thực hiện và kiểm soát, ghi sổ tài sản và bảo quản tài sản…
b. Nguyên tắc phân công, phân nhiệm:
Theo nguyên tắc này, trách nhiệm và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận. Việc phân công, phân nhiệm rõ ràng tạo sự chuyên môn hoá trong công việc, sai sót ít xảy ra và khi xảy ra dễ phát hiện.
c. Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn:
Theo sự uỷ quyền của các nhà quản lý, các cấp dưới được giao cho quyết định và giải quyết một số công việc trong một phạm vi nhất định. Quá trình uỷ quyền được tiếp tục mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp vụ kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn được thực hiện qua hai loại: phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể.
Sự phê chuẩn chung được thực hiện thông qua việc xây dựng các chính sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp dưới tuân thủ.
Sự phê chuẩn cụ thể được thực hiện theo từng nghiệp vụ kinh tế riêng.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên, các thủ tục kiểm soát còn bao gồm: việc quy định chứng từ sổ sách phải đầy đủ, quá trình kiếm soát vật chất đối với tài sản và sổ sách và kiểm soát độc lập việc thực hiện các hoạt động của đơn vị.
Giám sát độc lập (Kiểm toán nội bộ)
Giám sát bao gồm sự đánh giá thường xuyên và định kỳ của người quản lý đối với hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm xem xét hoạt động của nó có đúng như thiết kế và cần phải điều chỉnh gì cho phù hợp với tình hình của từng giai đoạn. Giám sát có một vai trò quan trọng trong kiểm soát nội bộ vì nó giúp cho kiểm soát nội bộ luôn duy trì được sự hữu hiệu của mình qua những thời kỳ khác nhau.
Giám sát thường xuyên diễn ra ngay trong quá trình hoạt động, do các nhà quản lý và các nhân viên thực hiện trong trách nhiệm của mình.
Giám sát định kỳ thường thực hiện qua chức năng kiểm toán nội bộ trong đơn vị, qua đó phát hiện kịp thời những yếu kém trong hệ thống để đưa ra biện pháp cải thiện.
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị.
Theo các chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ ban hành năm 1978, “Kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độc lập được thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra, đánh giá các hoạt động của tổ chức như là một hoạt động phục vụ cho một tổ chức”. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách hiệu quả.
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), kiểm toán nội bộ là “một hoạt động đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả của vịêc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động trong doanh nghiệp, chất lượng của hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ phát huy tác dụng nếu:
Về tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để không giới hạn phạm vi hoạt động của nó, đồng thời phải được giao một quyền hạn tương đố rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với phòng kế toán và các bộ phận hoạt động được kiểm tra.
Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân viên có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với các quy định hiện hành.
Những hạn chế tiềm tàng của hệ thống kiểm soát nội bộ
Bên cạnh những ưu việt, HTKSNB cũng có những hạn chế, đặc biệt là HTKSNB thường khó có thể ngăn ngừa hết các gian lận, là những hành vi cố ý của con người. Lý do:
Về chủ quan: Khả năng vượt tầm kiểm soát của HTKSNB do có sự thông đồng của một người trong Ban giám đốc hay một nhân viên với ngườ