Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất độc lập có đối tượng lao động, phương pháp lao động và lực lượng lao động riêng mang tính chuyên ngành, lâm nghiệp còn là một ngành nghề lâu đời ở các quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam. Dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các công cụ lao động của ngành lâm nghiệp cũng được cải tiến và hoàn thiện, công nghệ mới được áp dụng trong công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản. Đồng thời công nghệ sinh học hiện đại đã góp phần đáng kể trong việc chăm sóc, bảo vệ, phòng trừ sâu dịch bệnh cho cây rừng
Bên cạnh đó ngành lâm nghiệp có vị trí kinh tế - xã hội quan trọng. Lâm nghiệp hiện đang cung cấp sản phẩm tiêu dùng trong nước, đảm bảo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động và góp phần không nhỏ trong tổng GDP và kim ngạch xuất khẩu nước nhà. Phát triển sản xuất lâm nghiệp gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc miền núi, vùng cao, vùng sâu
Là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ với diện tích đất lâm nghiệp chiếm hơn 60% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh trong nhiều năm qua công việc trồng rừng ở Hà Tĩnh đang nặng về phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái mà chưa thực sự quan tâm đến lợi ích kinh tế, các chính sách và giải pháp chưa đồng bộ, do đó chưa khơi dậy được tiềm năng của nghề rừng. Trên cơ sở chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia trong xu thế mới, thời cuộc mới đòi hỏi Hà Tĩnh phải có những định hướng phát triển lâm nghiệp để phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, khu vực, thế giới đặc biệt là khi nước ta đã gia nhập WTO đặt ra cho nước ta nói chung và Hà Tĩnh nói riêng rất nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít thách thức mà chúng ta phải đối mặt và vượt qua
62 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về phát triển ngành lâm nghiệp tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
CNH - HĐH
: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
GATT
: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
NT
: Đãi ngộ quốc
MFN
: Đãi ngộ tỗi huệ quốc
EU
: Liên minh Châu Âu
FSC
: Hội đồng Quản trị rừng quốc tế
ASEAN
: Khu vực mậu dịch tự do các nước Đông Nam Á
AFTA
: Khu vực Thương mai tự do Đông Nam Á
AC-FTA
: Khu vực mậu dich tự do ASEAN - Trung Quốc
QLRBV
: Quản lý rừng bền vững
APEC
: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
ODA
: Hỗ trợ phát triển chính thức
FDI
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài.
Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất độc lập có đối tượng lao động, phương pháp lao động và lực lượng lao động riêng mang tính chuyên ngành, lâm nghiệp còn là một ngành nghề lâu đời ở các quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam. Dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, các công cụ lao động của ngành lâm nghiệp cũng được cải tiến và hoàn thiện, công nghệ mới được áp dụng trong công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản. Đồng thời công nghệ sinh học hiện đại đã góp phần đáng kể trong việc chăm sóc, bảo vệ, phòng trừ sâu dịch bệnh cho cây rừng…
Bên cạnh đó ngành lâm nghiệp có vị trí kinh tế - xã hội quan trọng. Lâm nghiệp hiện đang cung cấp sản phẩm tiêu dùng trong nước, đảm bảo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động và góp phần không nhỏ trong tổng GDP và kim ngạch xuất khẩu nước nhà. Phát triển sản xuất lâm nghiệp gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc miền núi, vùng cao, vùng sâu…
Là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ với diện tích đất lâm nghiệp chiếm hơn 60% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh trong nhiều năm qua công việc trồng rừng ở Hà Tĩnh đang nặng về phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái mà chưa thực sự quan tâm đến lợi ích kinh tế, các chính sách và giải pháp chưa đồng bộ, do đó chưa khơi dậy được tiềm năng của nghề rừng. Trên cơ sở chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia trong xu thế mới, thời cuộc mới đòi hỏi Hà Tĩnh phải có những định hướng phát triển lâm nghiệp để phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, khu vực, thế giới đặc biệt là khi nước ta đã gia nhập WTO đặt ra cho nước ta nói chung và Hà Tĩnh nói riêng rất nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít thách thức mà chúng ta phải đối mặt và vượt qua…
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
* Mục tiêu chung:
Đề tài được thực hiện với mục tiêu chung là góp phần thúc đẩy phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
* Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu thực trạng ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh, các tiềm năng phát triển và những cơ hội thách thức của ngành trong xu thế hội nhập.
- Đề xuất các giải pháp phát triển nhằm lâm nghiệp Hà Tĩnh phù hợp với quá trình gia nhập WTO.
1.3. Nội dung nghiên cứu.
Với mục tiêu nghiên cứu như trên thì nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm các phần chính sau:
- Tìm hiểu tổ chức thương mại thế giới và các hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp.
- Nghiên cứu tác động của quá trình hội nhập đến phát triển ngành lâm nghiệp Hà Tĩnh cụ thể là các hoạt động lâm nghiệp.
- Đề xuất các giải pháp và chính sách lâm nghiệp để thúc đẩy các hoạt động của ngành lâm nghiệp phù hợp với yêu cầu hội nhập
- Kết luận và kiến nghị
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp thu thập số liệu:
- Kế thừa có chọn lọc các tài liệu liên quan đến hoạt động lâm nghiệp.
- Điều tra, thu thập trực tiếp số liệu thông qua các báo cáo của Chi cục Lâm nghiệp và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Khảo sát trực tiếp tại cơ sở.
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những người có kinh nghiệm trong quản lý các hoạt động lâm nghiệp và đánh giá thực trạng phát triển của ngành cũng như nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
* Phương pháp xử lý số liệu:
- Phương pháp thống kê kinh tế.
- Phương pháp phân tích kinh tế.
- Phương pháp phân tích điểm yếu điểm mạnh.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP HÀ TĨNH VỚI VIỆC GIA NHẬP WTO
2.1. Vai trò vị trí của ngành lâm nghiệp
Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt. Nói đến lâm nghiệp trước hết phải nói đến vai trò của rừng trong nền kinh tế quốc dân và trong đời sống xã hội. Trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng có ghi: “Rừng là tài nguyên quý báu của đất nước, có khả năng tái tạo là một bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, gắn liền với đời sống của nhân dân với sự sống còn của các dân tộc”. Vai trò này được thể hiện:
2.1.1. Vai trò cung cấp
Cung cấp là một trong những vai trò quan trọng của rừng. Trong thực tế mọi thứ cần thiết cho sự tồn tại của con người như cung cấp lâm sản, đặc sản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội, trước hết là gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Bên cạnh đó rừng còn là nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây dựng cơ bản, công nghiệp chế biến thực phẩm… Đặc biệt đây là nguồn cung cấp lương thực, dược liệu quý phục vụ trực tiếp cho đời sống dân cư.
2.1.2. Vai trò phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái
Một vai trò đặc biệt của rừng là phòng hộ và bảo vệ môi trường sinh thái gồm các vai trò như: phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển nhằm bảo vệ đất, tránh các hiện tượng xói mòn rửa trôi đất, chống nhiễm mặn đất và bảo vệ nguồn nước, đồng thời hạn chế và phòng chống các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, lũ quét…
Ngoài ra rừng còn có vai trò phòng hộ đối với các khu công nghiệp, các khu đô thị, bảo vệ các đồng ruộng và các khu dân cư khỏi các nạn cát bay và mặn hoá, điều hoà khí hậu, làm sạch không khí… Rừng còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ các khu di tích lịch sử, nâng cao giá trị cảnh quan du lịch, đồng thời rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, là nơi dự trữ sinh quyển, làm tăng thêm tính đa dạng sinh học và bảo tồn các nguồn gen quý hiếm…
2.1.3. Vai trò xã hội
Đời sống của nhân dân phụ thuộc vào nhiều nguồn hàng hoá và dịch vụ môi trường tự nhiên. Khi mất rừng thì những người dân bị mất rừng cũng vẫn có thể thu được những lợi ích thông qua việc chuyển đổi đất rừng thành đất lâm nghiệp. tuy nhiên hậu quả của việc mất rừng là rất lớn, tuy nhiên ai cũng hiểu được hậu quả của việc diện tích rừng bị giảm sút và vì vậy phá rừng để nhằm các mục tiêu khác không phải là phương án hay.
Tài nguyên rừng trước hết là cơ sở vật chất, kỹ thuật chủ yếu quan trọng quyết định sự tồn tại của ngành lâm nghiệp, là nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi. Hiện nay rất nhiều người nghèo Việt Nam sống gần rừng, do vậy tài nguyên rừng cần phải được quan tâm đích đáng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Đồng thời rừng là cơ sở quan trọng để phân bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động sống gần rừng…
Bên cạnh những vai trò cơ bản trên thì trong lịch sử cũng như hiện nay rừng còn có vai trò đặc biệt trong việc góp phần bảo vệ lãnh thổ đất nước trong chiến tranh và cả thời bình.
2.2. Các tiềm năng phát triển ngành lâm nghiệp của Hà Tĩnh
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở vùng Bắc Trung Bộ có phía Bắc giáp với thành phố Vinh, phía nam giáp Quảng Bình, phía tây giáp Lào và phía đông là biển Đông, là tỉnh có đường giao thông khá ngắn sang Lào và Thái Lan qua cửa khẩu Cầu Treo, bên cạnh đó còn có nhiều cảng lớn như cảng sông Xuân Hải và cảng biển nước sâu Vũng Áng là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế của tỉnh với các tỉnh khác trong nước và với các nước láng giềng.
Ngoài ra Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên là 605.575 ha, với 80% diện tích là đồi núi phân hoá phức tạp và chia cắt mạnh hình thành các vùng sinh thái khác nhau. Địa hình đó đã tạo cho Hà Tĩnh có những cảnh quan có giá trị về mặt du lịch cũng như sinh thái như: Rừng nguyên sinh Vũ Quang, Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ… Với tổng diện tích tự nhiên đó thì đất quy hoạch cho lâm nghiệp là 365.577 ha, cụ thể như sau: Đất có rừng là 299.603 ha gồm 214.958 ha là đất rừng tự nhiên, 84.645 ha là đất rừng trồng; đất chưa có rừng là 65.974 ha. Đất lâm nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh chiếm 60,37% với độ che phủ rừng trên 45% (bình quân mỗi năm tăng 1.5%). Bên cạnh gỗ là tài nguyên rừng chủ yếu trong đó có nhiều loại gỗ quý hiếm như: Pơ mu, Gụ mật, Lim xanh thì rừng Hà Tĩnh còn có nhiều loại động vật và lâm sản ngoài gỗ khác khá phong phú về loài. Về thực vật có đến 143 họ, 380 chi, 761 loài, có 265 loài cung cấp gỗ, 37 loài cây cảnh, còn rất nhiều loại dược liệu quý khác… Động vật rừng cũng khá phong phú, trong đó lớp động vật có xương sống bước đầu thống kê được 364 loài thuộc 99 họ, 28 bộ của hầu hết các lớp; Lớp thú có 65 loài (gồm 8 bộ, 23 họ), trong đó có các loài đặc hữu như Sao La, Hổ, Voi, Bò Tót… Lớp chim đã phát hiện được 322 loài, thuộc 62 họ, 17 bộ, có 17 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới, trong đó có các loài đặc hữu như Gà Lôi Lam mào đen, Gà Lôi Lam đuôi trắng, Trĩ Sao…
Với số lượng loài động thực vật như trên có thể nói rừng Hà Tĩnh có tính đa dạng sinh học cao. Đây là nguồn tài nguyên sinh học vô giá cần được bảo tồn, giữ gìn vì mục tiêu kinh tế, môi trường, nghiên cứu khoa học và tham quan du lịch.
2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Trong những năm qua, kinh tế Hà Tĩnh đạt được mức tăng trưởng khá. Tuy nhiên, Hà Tĩnh vẫn là một tỉnh thuần nông và vẫn là một trong những tỉnh nghèo của cả nước với GDP theo giá trị thực tế chỉ đạt khoảng 5.905 tỷ VNĐ (chiếm khoảng 0.72% GDP của cả nước năm 2005). Tỷ lệ hộ nghèo khá cao 38,61% (cao hơn hẳn vùng Bắc Trung Bộ 10%), GDP bình quân đầu người chỉ bằng 47% so với cả nước (4.579.000 VNĐ/năm 2005). Thu vẫn chưa đủ chi và vẫn dựa chủ yếu vào trợ cấp của Trung Ương.
Hà Tĩnh có dân số khoảng 1.286.730 nguời, trong đó lao động xã hội có hơn 576.000 người, hơn 299.000 hộ, trong đó lao động trong lĩnh vực Nông Lâm nghiệp có hơn 483.000 người chiếm 83,8% tổng số lao động (cả nước tỷ lệ này là 65%). Dân số và lao động Nông, Lâm nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư và lao động trong tỉnh, nhưng nhìn chung chất lượng lao động còn thấp, chủ yếu lao động chưa qua đào tạo (số lượng lao động đã qua đạo tạo từ 6 tháng trở lên chưa đạt 18%) do vậy rất hạn chế cho việc tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nên vấn đề chất lượng lao động là vấn đề cần quan tâm trong thời gian tới nhằm nâng cao năng lực cho người lao động, tạo cơ hội việc lám cho họ để tham gia vào các quá trình sản xuất trong thời kỳ CNH - HĐH.
Bên cạnh đó Hà Tĩnh hệ thống đường Quốc gia đi qua gồm: Đường sắt, Quốc lộ IA, đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 8A, đường 12… có hệ thống tỉnh lộ, huyện lộ và hệ thống đường liên thôn liên xã khá hoàn chỉnh. Ngoài ra Hà Tĩnh còn có hệ thống cảng biển như: Xuân Hải, Vũng Áng. Các tuyến đường và hệ thống cảng biển tạo cho Hà Tĩnh một thế mạnh về giao lưu kinh tế trong và ngoài tỉnh cũng như giao lưu với các nước trong khu vực. Tuy nhiên hệ thống giao thông trong lâm nghiệp còn thiếu trầm trọng, số đã có thì đã xuống cấp trầm trọng, không được duy tu bảo dưỡng nên đã gây trở ngại khó khăn cho sản xuất lâm nghiệp. Theo ước tính thì hệ thống đường giao thông hiện nay phục vụ cho công tác lâm nghiệp chỉ mới đáp ứng được từ 20 - 25% nhu cầu, vì vậy trong thời gian tới cần phải quan tâm đầu tư nhằm phát huy được được hiệu quả tiềm năng của lâm, nghiệp.
Hệ thống cơ sở chế biến lâm sản tại Hà Tĩnh cũng khá phong phú và năng lực chế biến lớn như nhà máy sản xuất gỗ dăm ở Vũng Áng 230.000 tấn/năm. Tuy nhiên còn thiếu các cơ sở chế biến nhỏ gắn với cùng nguyên liệu tại chổ để có thể sơ chế.
Hiện nay toàn tỉnh có 9 vườn ươm công nghiệp, có thể sản xuất cây giống từ mô, hom… các vườn ươm này đều có vườn vật liệu giống đảm bảo, có khả năng sản xuất 5 - 6 triệu cây giống mỗi năm, ngoài ra còn có hàng chục vườn ươm tạm. Và với hệ thống này nếu tiếp tục củng cố và tổ chức lại sản xuất tốt thì có thể hoàn toàn chủ động đảm bảo cung ứng đủ giống cho trồng rừng.
Trong xu thế phát triển mới thì đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp Hà Tĩnh cũng có những biến đổi tích cực có nhiều dự án lớn như dự án xây dựng nhà máy băm dăm cở cảng Vũng Áng, dự án trồng rừng nguyên liệu và một số dự án về lĩnh vực thuỷ sản…
Bên cạnh đó đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông lâm nghiệp chưa phát huy đầy đủ tiềm năng và thế mạnh của của tỉnh trên lĩnh vực này. Xu hướng chủ yếu là khai thác sử dụng tài nguyên và các nguồn lực sẵn có như lao động, đất đai, tài nguyên… một số dự án trồng rừng nguyên liệu với diện tích khá lớn song hiệu quả kinh tế và môi trường chưa tương xứng.
Nguyên nhân kinh doanh trong nông nghiệp được xem là lĩnh vực có nhiều rủi ro. Đồng thời năng lực của các nhà quản lý thấp, thiếu các dịch vụ cần thiết, cơ sở hạ tầng kém, thủ tục hành chính khó khăn…
Đòi hỏi tỉnh Hà Tĩnh phải có những chính sách phù hợp nhằm khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này nhằm tạo điều kiện phát triển ngành nông nghiệp tỉnh tương xứng vời tiềm năng hiện có.
2.3. Các hoạt động của ngành lâm nghiệp
2.3.1. Hoạt động trồng rừng và bảo vệ rừng
Đây là một trong những hoạt động chính của ngành lâm nghiệp. Hoạt động trồng rừng được thực hiện nhằm nhiều mục đích khác nhau cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển chắn sóng, chắn cát, trồng rừng đê bảo vệ đất, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường sống cho con người nói riêng và cho các loài sinh vật nói chung. Ngoài ra việc trồng rừng vùng đệm góp phần vào công tác bảo vệ phân khu đặc biệt của rừng đặc dụng, khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên. Trồng rừng phục vụ cho sản xuất kinh doanh khai thác lâm sản.
Đi kèm với hoạt động trồng rừng là bảo vệ rừng không kém phần quan trọng. Hoạt động này nó quyết định sự thành công hay không thành công của hoạt động trồng rừng. Với tình trạng rừng càng ngày càng suy giảm về mặt số lượng và chất lượng do khai thác bừa bãi và sâu bệnh… đòi hỏi phải làm sao bảo vệ và nâng cao chất lượng diện tích rừng hiện có đồng thời thực hiện nâng cao độ che phủ của rừng, giảm tối đa diện tích đất chưa có rừng, thực hiện phát triển lâm nghiệp bền vững. Để làm được điều này thì việc bảo vệ rừng không chỉ là trách nhiệm của riêng các cơ quan chức năng mà đó là trách nhiệm của mỗi người dân, hay nói đúng hơn là thực hiện xã hội hóa nghề rừng.
2.3.2. Hoạt động khai thác lâm sản
Là hoạt động nhằm khai thác các sản phẩm từ rừng nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng xã hội: khai thác gỗ tròn, gỗ nguyên liệu và các lâm sản ngoại gỗ như tre, nứa, dược liệu, lương thực và nguyên liệu chế biến thực phẩm.
Khai thác lâm sản là một nghề lâu đời, gắn liền với nông nghiệp nông thôn miền núi và vùng dân cư sống gần rừng, hoạt động này mang tính chất nhỏ bé, tự cấp, manh mún. Do sự phát triển của ngành chế biến lâm sản nên hiện nay hoạt động này đã phát triển hơn có nhiều thành phần kinh tế tham gia.
2.3.3. Hoạt động chế biến lâm sản
Chế biến lâm sản là một ngành công nghiệp quan trọng, là hoạt động tạo ra giá trị gia tăng cho các sản phẩm lâm sản, đặc biệt là với hàng lâm sản xuất khẩu. Nó lấy nguyên liệu từ ngành khai thác. Công nghiệp chế biến lâm sản phát triển cho phép sử dụng triệt để và tiết kiểm nguyên liệu từ rừng, nâng cao chất lượng và giá trị hàng lâm sản dựa vào các thành tựu khoa học kỹ thuật. Vì vậy để ngành lâm nghiệp phát triển dược thì ngành chế biến lâm sản phải đi trước một bước nhất là một nước đang phát triển như nước ta.
Nguồn nguyên liệu từ rừng phong phú, đa dạng đã tạo điều kiện cho ngành chế biến lâm sản hình thành nhiều nghề từ thủ công đến hiện đại như: sản phẩm mộc, ván nhân tạo, đồ thu công mỹ nghệ mây tre đan xuất khẩu, chế biến nhựa thông, cao su, cánh kiến đỏ, chế biến dược liệu, thực phẩm… đã thúc đẩy sự phân công lao động trong nội bộ ngành lâm nghiệp cũng như trong nên kinh tế quốc dân nói chung.
2.3.4. Hoạt động tiêu thụ
Đây là hoạt động mang tính chất quyết định đối với bất kỳ sản phẩm nào và sản phẩm lâm sản cũng vậy. Thông qua hoạt động tiêu thụ sản phẩm, giá trị hàng hóa được thực hiện tạo ra lợi nhuận cho người sản xuất kinh doanh. Sản phẩm lâm sản được tiêu thụ thông qua thị trường, ở đây có thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Vì vậy để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ thì phải tạo thương hiệu cho sản phẩm, mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới.
2.4. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và xu thế hội nhập của lâm nghiệp Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng.
2.4.1. Tổ chức WTO
a. Tổ chức WTO là gì?
Tổ chức thương mại thế (WTO) thành lập ngày 1/1/1995, được kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại). WTO là một tổ chức quốc tế có chức năng giám sát các hiệp định thương mại đa phương được thương lượng bởi các nước thành viên của tổ chức này. WTO được hiểu theo hai mặt:
Là một cơ quan được gắn với hàng loạt các quy định và pháp luật về việc sử dụng các chính sách thương mại tác động đến luồng mậu dịch quốc tế.
Là một thị trường mà ở đó các nước thành viên trao đổi “hàng hoá” là các sự nhượng bộ, thâm nhập thị trường lẫn nhau và chấp nhận nguyên tắc của luật chơi.
Và thực hiện các chức năng chính sau:
Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
Diễn đàn về đàm phán thương mại
Giải quyết các tranh chấp về thương mại
Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 7 tháng 11 năm 2006, WTO có 150 thành viên và Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 vủa tổ chức này.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội Nghị Bộ Trưởng Thương Mại, nhóm họp ít nhất hai năm một lần. Dưới hội đồng là Hội Đồng Thương Mại về hàng hóa, Hội đồng về Thương Mại Dịch Vụ, Hội Đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại và quyền sở hữu trí tuệ. Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu, khác với các tổ chức khác mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị như nhau.
b. Nguyên tắc hoạt động của WTO
* Nguyên tắc không phân biệt đối xử: mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác không kém ưu đãi hơn với sản phẩm của một nước thứ ba (đãi ngộ tối huệ quốc - MFN). Và cũng không đối xử ưu đãi sản phẩm của công dân nước mình hơn sản phẩm của nước ngoài (đãi ngộ quốc - NT).
* Nguyên tắc thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán. Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ. Mức độ cắt giảm hàng rào bảo hộ được thỏa thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương.
* Nguyên tắc về dự báo, dự đoán: Các nhà đầu tư cũng như chính phủ nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ không bị thay đổi một cách tùy tiện. Cam kết về thuế quan và các biện pháp khác bị ràng buộc về mặt pháp lý.
* Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: Hạn chế các tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
* Nguyên tắc dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay có thời gian dài hơn để điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
c. Một số hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiêp
Lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực hết sức nhạy cảm và khó giải quyết trong quan hệ thương mại giữa các nước thành viên. Khi WTO ra đời thay thế cho hiệp định GATT đã bổ sung các quy định, luật lệ thương mại áp dụng đối với nông nghiệp. Do đó hiệp định nông nghiệp đã tăng cường các quy định và luật lệ để điều chỉnh tốt hơn các biện pháp của Chính phủ trong ba lĩnh vực chủ yếu:
- Tiếp cận thị trường nông - lâm sản (thuế quan, phi thuế quan và tự vệ đặc biệt).
- Hỗ trợ trong nước trong nông nghiệp.
- Trợ cấp xuất khẩu.
* Tiếp cận thị trườ