Sau đây nhận định của Henry Ford (nhân vật nổi tiếng thế giới) về vai trò và sự cần thiết của Bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội: “New York không phải là nơi khai sinh ra lồi người, nhưng sản sinh ra những nhà bảo hiểm Không có bảo hiểm, sẽ không có những tòa nhà chọc trời bởi không có một công nhân nào chấp nhận làm việc ở độ cao như vậy khi mà họ có thể rơi xuống chết người để lại một gia đình trong sự khốn khổ. Không có bảo hiểm, sẽ không có một nhà tư bản nào dám đầu tư hàng triệu đô la để xây dựng các tòa nhà lớn như vậy bởi vì một điếu thuốc có thể thiêu hủy nó thành một đám tro tàn. Không có bảo hiểm, không ai dám lái xe qua các phố. Một người lái xe giỏi cũng có ý thức rằng anh ta có thể đâm vào một người đi bộ bất cứ lúc nào”.
Thật vậy trong cuộc sống, con người luôn bị những rủi ro rình rập là: Đau ốm, tai nạn, động đất, khủng bố Mà không ai dám nói chắc là mình không bao giờ gặp phải. Bên cạnh cuộc sống hiện đại người ta phải đối phó với những rủi ro rất lớn về người và vật chất điển hình những vụ thiệt hại gây chấn động thế giới: Sự kiện khủng bố 11/09 ở Mỹ, khủng bố tàu điện ngầm ở Tây Ban Nha, vụ độâng đất ở Iran, vụ cháy ITC ở Việt Nam vv
Tổn thất một khi phát sinh nó thiệt hại rất lớn về người và của, nó còn làm gián đoạn quá trình sản xuất, làm tê liệt nền kinh tế, nó gây hậu quả rất nghiêm trọng và kéo dài một gian mới khôi phục hoặc có thể là ngưng vĩnh viễn.
Những rủi ro nói trên là nguồn gốc phát sinh trong hoạt động dự trữ bảo hiểm. Những biện pháp thông thường để xử lý rủi ro nói trên:
- Biện pháp phòng tránh, hạn chế tổn thất gồm: Né tránh rủi ro, phòng tránh rủi ro.
- Biện pháp khắc phục hậu quả rủi ro gồm: Chấp nhận tự gánh chịu (bằng cách tiết kiệm, lập qũy dự trữ, dự phòng), chuyển nhượng rủi ro (chuyển nhượng đơn thuần, chuyển nhượng trên nguyên tắc tương hỗ, phân tán rủi ro bằng cách cứu trợ, lập quỹ chung).
Có nhiều loại quỹ dự trữ, bảo hiểm hoạt động theo cơ chế đó: Quỹ dự trữ quốc gia; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo hiểm thương mại .
66 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tình hình thực hiện và một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiêu qủa hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex – sài gòn trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM:
Sự cần thiết của Bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội.
Sau đây nhận định của Henry Ford (nhân vật nổi tiếng thế giới) về vai trò và sự cần thiết của Bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội: “New York không phải là nơi khai sinh ra lồi người, nhưng sản sinh ra những nhà bảo hiểm … Không có bảo hiểm, sẽ không có những tòa nhà chọc trời bởi không có một công nhân nào chấp nhận làm việc ở độ cao như vậy khi mà họ có thể rơi xuống chết người để lại một gia đình trong sự khốn khổ. Không có bảo hiểm, sẽ không có một nhà tư bản nào dám đầu tư hàng triệu đô la để xây dựng các tòa nhà lớn như vậy bởi vì một điếu thuốc có thể thiêu hủy nó thành một đám tro tàn. Không có bảo hiểm, không ai dám lái xe qua các phố. Một người lái xe giỏi cũng có ý thức rằng anh ta có thể đâm vào một người đi bộ bất cứ lúc nào”.
Thật vậy trong cuộc sống, con người luôn bị những rủi ro rình rập là: Đau ốm, tai nạn, động đất, khủng bố…… Mà không ai dám nói chắc là mình không bao giờ gặp phải. Bên cạnh cuộc sống hiện đại người ta phải đối phó với những rủi ro rất lớn về người và vật chất điển hình những vụ thiệt hại gây chấn động thế giới: Sự kiện khủng bố 11/09 ở Mỹ, khủng bố tàu điện ngầm ở Tây Ban Nha, vụ độâng đất ở Iran, vụ cháy ITC ở Việt Nam…vv…
Tổn thất một khi phát sinh nó thiệt hại rất lớn về người và của, nó còn làm gián đoạn quá trình sản xuất, làm tê liệt nền kinh tế, nó gây hậu quả rất nghiêm trọng và kéo dài một gian mới khôi phục hoặc có thể là ngưng vĩnh viễn.
Những rủi ro nói trên là nguồn gốc phát sinh trong hoạt động dự trữ bảo hiểm. Những biện pháp thông thường để xử lý rủi ro nói trên:
Biện pháp phòng tránh, hạn chế tổn thất gồm: Né tránh rủi ro, phòng tránh rủi ro.
Biện pháp khắc phục hậu quả rủi ro gồm: Chấp nhận tự gánh chịu (bằng cách tiết kiệm, lập qũy dự trữ, dự phòng), chuyển nhượng rủi ro (chuyển nhượng đơn thuần, chuyển nhượng trên nguyên tắc tương hỗ, phân tán rủi ro bằng cách cứu trợ, lập quỹ chung).
Có nhiều loại quỹ dự trữ, bảo hiểm hoạt động theo cơ chế đó: Quỹ dự trữ quốc gia; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo hiểm thương mại….
Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm.
1.1.2.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm thế giới.
Như ta đã thấy, bảo hiểm xuất hiện như một phương thức xử lý rủi ro, tổn thất mà con người phải đối phó hàng ngày trong đời sống sinh hoạt sản xuất của mình. Cách xử lý đó dựa trên ý niệm “cộng đồng hóa rủi ro, hiểm họa”.
Vào 4500 năm trước công nguyên, ở Ai Cập các người thợ đẽo đá đã biết thành lập “quỹ tương trợ” để giúp nạn nhân trong vụ tai nạn đẽo đá.
Trung Quốc 4000 năm trước công nguyên. Người ta cho rằng ở thời kỳ này các nhà lái buôn Trung Quốc đã biết hợp tác tổ chức chuyên chở tài sản của mỗi người phân tán trên nhiều thuyền khác nhau. Cách làm như vậy, giúp cho mỗi người tránh việc phải gánh chịu tổn thất tồn bộ số hàng của mình. Đây chính là “phân tán rủi ro”.
Ơû Babylon 1700 năm trước công nguyên và Athenes 500 năm trước công nguyên, người vay mượn với lãi suất cao, không phải trả nếu có rủi ro
Hội bảo hiểm đầu tiên ra đời vào năm 1424 ở Ý cho vận chuyển đường biển và đường bộ.
Anh quốc năm 1600, nữ Hồng Anh quốc cho phép các hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện trong thời gian 90 năm. Năm 1720, các doanh nghiệp bảo hiểm Lloyd’s ra đời và sau đó 60 năm, họ nắm giữ 90% rủi ro hàng hóa trên thế giới.
Năm 1667 sáu công ty bảo hiểm ra đời sau một đám cháy lớn thiêu hủy 13000 tòa nhà ở Luân Đôn, bảo hiểm hỏa hoạn dần dần lan sang các nước châu Âu khác.
Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở Anh vào năm 1762. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, bảo hiểm phát triển và đảm bảo cho nhiều rủi ro mới như: Mô tô, máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Ngày nay bảo hiểm trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng trong nền kinh tế, nó đóng góp rất lớn trong sự phát triển kinh tế và là động lực thúc đẩy cho các ngành còn lại.
Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm Việt Nam.
Giai đọan trước 1975
Ở miền Nam lúc bây giờ có hơn 52 Công ty bảo hiểm trong và nước hoạt động tại Sài Gòn. Các công ty cũng thực hiện đa dạng các nghiệp vụ và cũng thành lập một hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm nhằm thực hiện các chức năng thông tin, tư vấn, đào tạo……
Ở miền Bắc: Ngày 17/12/1964 Công ty bảo hiểm Bảo Việt ra đời và hoạt động 15/01/1965 do nằm trong vùng chiến tranh hoạt động của Bảo Việt chưa phát triển mạnh, những nghiệp vụ chủ yếu: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm.
Giai đoạn sau 1975 đến trước ngày 18/12/1993
Sau giải phóng, việc quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam đã dẫn đến thành lập công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (BAVINA), trên cơ sở quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm trước giải phóng, BIVINA một mặt thực hiện các hợp đồng cũ với khách hàng do các công ty bảo hiểm trước đây thực hiện ký kết và tiếp tục nhận các hợp đồng mới.
Ngày 01/03/1976 Bộ Tài Chính ra quyết định chuyển công ty BIVINA thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo Việt / TPHCM). Bảo Việt lúc này là công ty bảo hiểm duy nhất của nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chế độ hạch tóan kinh tế thống nhất tồn ngành vào 01/01/1980. Bảo Việt là đơn vị trực thuộc Bộ Tài Chính có chức năng giúp Bộ Tài Chính thống nhất các quản lý bảo hiểm trong cả nước và trực tiếp tiến hành các nghiệp vụ bảo hiểm trong cả nước.
Năm 1986 được nâng cấp lên thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam có chi nhánh ở tất cả tỉnh thành trong cả nước.
Giai đoạn sau 18/12/1993
Ngày 18/12/1993 Nghị định 100/CP của Chính Phủ đã chấm dứt sự độc quyền của Bảo Việt, Từ Nghị định này Có nhiều công ty bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thành lập:
Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico)
Công ty cổ phần bảo hiểm nhà rồng (Bảo Long)
Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC)
Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE)
Các công liên doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm cũng lần lượt ra đời. Nhà nước cũng mở cửa cho các công ty bảo hiểm nước ngồi mở chi nhánh, đặt văn phòng đại diện để đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Với dự xuất hiện của các công ty bảo hiểm trong và ngồi nước, đã tạo sư cạnh tranh nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm, làm sôi động thị trường bảo hiểm mà lâu nay ngủ yên, giúp cho khách hàng lựa chọn được những sản phẩm dịch vụ tốt nhất.
Vai trò, chức năng, tác dụng của bảo hiểm.
Xét về khía cạnh kinh tế xã hội:
Là hành lang bảo vệ an tồn cho mỗi cá nhân và tổ chức trước những rủi ro và sự cố bất ngờ dẫn đến tổn thất làm ngưng trệ những hoạt động diễn ra bình thường. Quỹ bảo hiểm được được tạo lập một cách có tổ chức khoa học nhằm đáp ứng kịp thời và bù đắp các tổn thất phát sinh, từ đó tái lập và đảm bảo cho tính thường xuyên liên tục của các quá trình xã hội.
Như vậy trên phạm vi rộng tồn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò như một công cụ an tồn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và nền kinh tế. Với vai trò đó bảo hiểm thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống và phát huy tác dụng vốn có của mình: Thúc đẩy ý thức đề phòng – hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
Xét về khía cạnh tài chính:
Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc thu phí trước bồi thường sau nên vào một thời điểm nhất định, các tổ chức hoạt động bảo hiểm sẽ nắm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi và như vậy, các tổ chức hoạt động bảo hiểm hiển nhiên trở thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, bảo hiểm không chỉ đóng vai trò như một công cụ an tồn mà còn có vai trò của một trung gian tài chính nắm giữ một phần quan trọng trong nền kinh tế. Với vai trò đó bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức quan trọng, đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, đó là tập trung, tích tụ vốn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được thường xuyên và liên tục.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm.
Nguyên tắc số đông.
Hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra một “sự đóng góp của số đông vào rủi ro của số ít” trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất, thể hiện ở mức phí phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi chủ tham gia không bị ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất của mình.
Nguyên tắc trung thực.
Khi hợp đồng bảo hiểm dược ký kết, xem như rủi ro của người được bảo hiểm chuyển sang cho nhà bảo hiểm khi người này đóng phí đầy đủ, nhà bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Lúc này sẽ có những nghi ngờ giữa hai bên như sau:
Đối với nhà bảo hiểm: Không biết người được bảo hiểm có khai báo chính xác rủi ro hay không và khi rủi ro xảy ra thì do nguyên nhân khách quan hay cố ý.
Đối với người được bảo hiểm: Khi họ đóng phí bảo hiểm cho nhà bảo hiểm, họ tự hỏi khi có rủi ro thì nhà bảo hiểm có bồi thường hay không hoặc có đủ khả năng bồi thường không.
Như vậy để có sự tin tưởng hai bên trên hợp đồng bảo hiểm phải gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau và điều này đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Ngồi ra đối với bảo hiểm nhân thọ còn thêm ba nguyên tắc:
Nguên tắc lợi ích bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường.
Nguyên tắc thế quyền.
Phân loại bảo hiểm thương mại
Có nhiều cách phân loại bảo hiểm: Phân loại theo đối tượng bảo hiểm, phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm, phân loại theo phương thức quản lý, phân loaị theo quy định hiện hành. Ơû đây ta chỉ nói đến phân loại theo phương thức quản lý.
Phân loại theo phương thức quản lý:
Bảo hiểm tự nguyện:
Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hồn tồn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt của con người.
Bảo hiểm bắt buộc:
Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của tồn bộ nền kinh tế – xã hội. Các hoạt hoạt nguy hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này. Thông thường, đối với các loại bảo hiểm bắt buộc này gần như hầu hết các nội dung cơ bản của hợp đồng chỉ là do nhà nước quy định: Người được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, rủi ro được đảm bảo, phí bảo hiểm,…
Ví dụ: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ là bắt buộc người có đối tượng mua bảo hiểm chứ không bắt buộc mua bảo hiểm ở đâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo hiểm được ký kết vẫn còn nguyên vì người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo hiểm cho mình. Hơn nữa, các quy định của nhà nước liên quan đến điều kiện bảo hiểm chỉ ở mức tối thiểu, khách hàng bảo hiểm vẫn có thể thỏa thuận với nhà bảo hiểm để được đảm bảo cao hơn, tốt hơn, phù hợp với nhu cầu đảm bảo cho rủi ro đang có và khả năng của mình.
Ơû các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, số lượng các loại bảo hiểm bắt buộc rất nhiều liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau và có xu hướng không ngừng tăng lên khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển một cách có tổ chức. Ơû Việt Nam hiện nay, ý nghĩa mục đích tốt đẹp đó được thể hiện qua loại hình bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách trên xe.
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI.
Nhu cầu và sự phát triển của bảo hiểm xe cơ giới.
Sự tồn tại và phát triển của ngành bảo hiểm xe cơ giới không tách rời sự tồn tại và phát triển tất yếu của ngành bảo hiểm nói chung trong hệ thống kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, ổn định. Tuy nhiên cũng cần thấy các nhân tố trực tiếp, cụ thể khẳng định sự cần thiết của các loại hình này, đặc biệt đối với Việt Nam:
Kinh tế ngày càng phát triển, kéo theo sự gia tăng về số lượng xe cơ giới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đó. Do cơ sở hạ tầng giao thông chật hẹp không đáp ứng kịp sự phát triển của phương tiện đi lại. Người dân điều khiển phương tiện không có ý thức chấp hành luật lệ giao thông nên số lượng xe cơ giới tăng cũng đồng nghĩa với việc gia tăng tai nạn giao thông. Một khi tai nạn xảy ra không phải ai cũng có khả năng bồi thường cho người thứ ba để khôi phục lai lại tài sản đã bị thiệt hại. Để đáp ứng nhu cầu được bảo vệ của các chủ xe, để bảo vệ quyền lợi cho các nạn nhân, do đó loại hình bảo hiểm xe cơ giới ra đời.
Bảo hiểm xe cơ giới được các nhà bảo hiểm triển khai ở miền Nam trước 1975, chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Sau 1975, loại hình này được tiếp tục duy trì ở thành phố Hồ Chí Minh và sau đó lan ra tồn miền Nam (1979) và cả nước (1980). Năm 1988, nghị định số 30/HDBT của hội đồng Bộ Trưởng và tiếp sau đó là NĐ 115/1997/NĐ-CP được ban hành đưa ra chế độ bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự đối với tất cả các chủ xe cơ giới.
Việt Nam, bảo hiểm xe cơ giới thông thường gồm ba loại cơ bản sau:
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Bảo hiểm vật chất xe.
Bảo hiểm con người trong việc sử dụng xe.
1.2.2 Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận và bảo vệ quyền lợi bất khả xâm phạm về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mọi công dân. Vì vậy pháp luật buộc mọi người phải có trách nhiệm chung là không làm hại về tinh thần cũng như về vật chất của người khác. Nếu có hành vi vi phạm thì người bị thiệt hại được pháp luật bảo vệ có thể khiếu nại đòi bồi thường từ phía người gây thiệt hại.
Xe cơ giới xếp vào nguồn gây nguy hiểm cao độ mà pháp luật qui định, do đó các chủ xe khó có thể tránh khỏi những sai sót làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Dĩ nhiên, lúc đó họ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với những sai sót đó mà ngay cả khi họ không có lỗi.
Vậy có thể hiểu trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là phần trách nhiệm mà theo qui định của pháp luật một người hay nhiều người là chủ xe cơ giới phải bồi thường hậu quả đã gây ra cho một hay nhiều người hoặc đối tượng họ đảm nhận chuyên chở. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, hậu quả của trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự do việc sử dụng xe cơ giới gây ra là không thể bảo hiểm.
Trong thực tế, trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới có thể biểu hiện dưới hai dạng là: TNDSCXCG trong hợp đồng và TNDSCXCG ngồi hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ngồi hợp đồng.
Như đã trình bày, TNDS là trách nhiệm bối thường thiệt hại. Trách nhiệm này phải phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Vậy trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ngồi hợp đồng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba trong các vụ tai nạn xe cơ giới gây ra. Tuy nhiên, trong thực tế, tại nạn do xe cơ giới gây ra có thể có nhiều nguyên nhân cho nên cần phải điều tra thật đầy đủ để xác minh rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Do đó, khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng cần chú ý một số trường hợp sau:
Người lái xe gây ra tai nạn khi anh ta sử dụng vào việc riêng: Chủ xe vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng được đòi hỏi trách nhiệm của người lái xe.
Tai nạn xảy ra khi xe đang giao cho người khác mượn: Người mượn phải bồi thường. Nếu chủ xe cho mượn cả lái xe thì chủ xe chịu trách nhiệm bồi thường.
Tai nạn xảy ra khi xe lưu hành không có sự đồng ý của chủ xe: Người sử dụng không được phép của chủ xe phải bồi thường.
Tai nạn do người vị thành niên gây ra: Họ không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì không có năng lực hành vi dân sự. Nếu người vị thành niên điều khiển xe gây tại nạn thì thông thường cha mẹ hoặc người dám hộ là người chịu trách nhiệm bồi thường.
Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng được xác định trên cơ sở những thỏa thuận dân sự giữa một bên là chủ xe với một bên là các đối tượng cần vận chuyển (hành khách, hàng hóa). Trách nhiệm này có thể đưa ra trên cơ sở quy định chung của pháp luật và có thể là những thỏa thuận riêng. Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng thường là trách nhiệm đối với hành khách trên xe và trách nhiệm đối với hàng hóa trên xe.
Nội dung các loại hình bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo hiểm bắt buộc, được thực hiện theo nghị định số 115/1997/NĐ-CP ngày 17/12/1997 của Chính Phủ về chế độ bắt buộc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và quyết định 23/2003/QĐ-BTC (25/2/2003) của Bộ Tài Chính về việc ban hành quy tắc, biểu phí, mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe cơ giới.
1.2.3.1 Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
1.2.3.1.1 Khái niệm.
Trong những vụ tai nạn giao thông đường bộ, trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm bắt buộc theo quy định của luật pháp, một người hay nhiều người phải bồi thường hậu quả của tai nạn đã gây ra cho một hoặc nhiều người khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba trong các vụ tai nạn xe cơ giới là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tài sản chung của xã hội, tài sản riêng của công dân hay tính mạng, sức khoẻ của người khác. Giải quyết bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là áp dụng một biện pháp thuộc về chế độ bắt buộc trách nhiệm dân sự.
1.2.3.1.2 Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự.
Để giải quyết đúng đắn một vụ tai nạn giao thông, việc cần thiết đầu tiên phải là việc xác nhận rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh hay không. Cũng giống như việc xác nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng khác, trong trường hợp này thông thường trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phát sinh khi hội tụ đủ bốn điều kiện sau đây:
Phải có thiệt hại:
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét đến việc nghĩa vụ bồi thường có phát sinh hay không. Thông thường là thiệt hại về tài sản, tính mạng sức khoẻ con người. Những thiệt hại trên phải là những thiệt hại thực tế, thực sự xảy ra và có thể thanh tốn được.
Tuy nhiên, những thiệt hại về con người là không thể tính tốn thành tiền được, ở những người khác nhau có thể khác nhau. Nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với những người bị thiệt hại và thân nhân của họ, tòa án có thể phán quyết bằng một khoản tiền nhất định.
Phải có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật:
Trong phạm vi phần này, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật được hiểu là hành vi gây tai nạn do không chấp hành hoặc chấp hành không đúng những quy định trong điều lệ về trật tự an tồn giao thông đường bộ. Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật này có thể đơn thuần chỉ là một vi phạm pháp luật về dân sự nhưng cũng có thể nặng hơn là một việc phạm pháp về hình sự. Trong trường hợp phạm pháp về hình sự, người gây tai nạn không những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải bị truy tố trước pháp luật.
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại:
Mối quan hệ này được hiểu là thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật, và ngược lại, hành vi trái pháp luật thực sự là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại xảy ra.
Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp hành vi trái pháp luật tuy không phải là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại đã xảy ra nhưng lại có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại thì được coi là mối quan hệ nhân quả với thiệt hại.
Phải có lỗi của người gây thiệt hại:
Đây là yếu tố quan trọng. Lỗi của người gây thiệt hại được đánh giá trên cơ sở độ sai phạm của anh ta. Người gây thiệt hại phải nhận thức được hoặc có thể nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật. Sau những vụ tai nạn giao thông đường bộ, mức độ lỗi của người gây ra tai nạn được đánh giá bằng việc xem xét, đo đạc