Trên thế giới có ba loại hình hí kịch cổ, đó là: Bi kịch và hài kịch Hi Lạp cổ; Kịch sanscrit Ấn Độ; và hí khúc Trung Quốc. Kinh kịch là một đại biểu điển hình trong rất nhiều loại hình hí khúc của Trung Quốc. Kinh kịch Trung Quốc còn được gọi là “Ca kịch phương Đông”, là quốc túy thuần túy Trung Quốc. Cách biểu diễn mang tính tổng hợp, tính ước lệ, và tính trình thức của nghệ thuật kinh kịch đã cấu thành nên một phong cách biển diễn đặc thù cuả kinh kịch Trung Quốc.
Ban đầu nghệ thuật diễn tuồng sân khấu của Trung Hoa cổ được gọi là ca kịch hay hý kịch là một thể loại diễn tuồng bao gồm ca múa (ngâm khúc kèm theo nghệ thuật vũ đạo), thậm chí có cả các loại tạp kỹ pha trộn như kể chuyện, các màn nhào lộn, xiếc, diễn hoạt kê (tiếu lâm khôi hài), đối thoại trào lộng và võ thuật.
Từ thời nhà Đường trở về trước nghệ thuật diễn tuồng sân khấu được gọi là hý kịch.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh kịch Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU
KINH KỊCH TRUNG QUỐC
ff*ee
I. Khái quát:
1.Lịch sử ra đời:
Trên thế giới có ba loại hình hí kịch cổ, đó là: Bi kịch và hài kịch Hi Lạp cổ; Kịch sanscrit Ấn Độ; và hí khúc Trung Quốc. Kinh kịch là một đại biểu điển hình trong rất nhiều loại hình hí khúc của Trung Quốc. Kinh kịch Trung Quốc còn được gọi là “Ca kịch phương Đông”, là quốc túy thuần túy Trung Quốc. Cách biểu diễn mang tính tổng hợp, tính ước lệ, và tính trình thức của nghệ thuật kinh kịch đã cấu thành nên một phong cách biển diễn đặc thù cuả kinh kịch Trung Quốc.
Ban đầu nghệ thuật diễn tuồng sân khấu của Trung Hoa cổ được gọi là ca kịch hay hý kịch là một thể loại diễn tuồng bao gồm ca múa (ngâm khúc kèm theo nghệ thuật vũ đạo), thậm chí có cả các loại tạp kỹ pha trộn như kể chuyện, các màn nhào lộn, xiếc, diễn hoạt kê (tiếu lâm khôi hài), đối thoại trào lộng và võ thuật.
Từ thời nhà Đường trở về trước nghệ thuật diễn tuồng sân khấu được gọi là hý kịch.
Các thể loại kịch của Trung Quốc cũng như các loại hình biểu diễn sân khấu tương tự tại các nước trong khu vực như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam thường lấy các sự tích câu chuyện những vị anh hùng trong dân gian và lịch sử làm đề tài chủ đạo.
Hý kịch, một thể loại Opera cổ của Trung Quốc, thời tiền Kinh kịch.
Cho đến thời nhà Đường, được phát triển thành Tham quân hí (hoặc được gọi là Lộng tham quân) bao gồm hai vai: một người mặc y phục xanh lục tề chỉnh, thông minh cơ trí và linh lợi, tên vai diễn gọi là Tham quân; còn người kia ăn mặc lôi thôi, khờ khạo đần độn, tên vai diễn gọi là Thương cốt. Hai nhân vật này trong vở khi diễn thường có những lời đối đáp khôi hài trào lộng. Tham quân là vai chính, Thương cốt là vai phụ. Đôi khi Tham quân là đối tượng để làm trò cười và cuối cùng bị Thương cốt đánh đập.
Đến thời nhà Tống, Tham quân hí biến thành Tạp kịch. Vai diễn cũng chỉ có hai người: Thương cốt (vai khờ khạo) được đổi thành tên Phó mạt, còn Tham quân (vai tinh khôn) được đổi tên là Phó tịnh. Trong khi diễn, diễn viên nam cũng có thể hóa trang thành nhân vật nữ để diễn xuất, được gọi là Trang đán. Đến thời Nam Tống, vùng đất Ôn Châu là nơi nổi danh về hí kịch, ca múa, nên sản sinh ra thể loại được gọi là Nam hí (hí kịch Nam Tống).
Thời nhà Tống nghệ thuật diễn không chú ý đến các vai nữ (Đán giác). Vai nữ được xếp hạng là «đệ tử» (con em). Trong ban hát đều là nữ thì được gọi là «đệ tử tạp kịch». Vai chính được gọi là Chính đán, vai già là Lão đán, vai trẻ là Tiểu đán, Trà đán, Thiếp đán, v.v...
Vào thời nhà Nguyên, vai nữ (đán giác) lại rất được xem trọng. Đó cũng là điểm khác biệt giữa tạp kịch thời nhà Nguyên và tạp kịch thời nhà Tống.
Tính chất tạp kịch thời nhà Tống và thời nhà Nguyên có chung một tính chất là khôi hài, hoạt kê, nhưng tạp kịch thời nhà Nguyên có nhấn mạnh thêm tính chất phê phán thói đời và các tệ nạn xã hội.
Tạp kịch thời nhà Nguyên là thành tựu rất lớn và ở giai đoạn đỉnh điểm hưng thịnh của nó trong suốt hai thế kỷ XIII-XIV. Nhiều nhà soạn những vở diễn tuồng múa hát rất nhiều, khoảng trên 150 người, trong số đó nổi tiếng nhất là Quan Hán Khanh có ít nhất cũng khoảng 60 vở tuồng.
Cuối đời Nguyên, Nam Hí chuyển hoá thành truyền kỳ. Truyền kỳ chú trọng các chủ đề tình cảm lãng mạn, nên khống chế sân khấu đến 200 năm sau đó. Âm nhạc của Nam hí bao gồm các khúc hát dân gian, các bài ca dao ở thôn quê với tính chất địa phương khá đậm. Do đó nó đã phát triển thành hệ thống bốn giọng nói địa phương: Hải Diêm, Dặc Dương, Dư Diêu, và Côn Sơn. Khúc hát vùng Côn Sơn (gọi là Côn khúc) chiếm địa vị chủ yếu từ cuối đời Minh. Đến đời Thanh thì Côn khúc được gọi là nhã bộ, rất được sĩ đại phu hâm mộ. Khi Côn Khúc suy, các loại hí kịch địa phương nở rộ và được gọi theo tên địa phương như Xuyên kịch, Tương kịch, Cống kịch, Huy kịch, v.v...
Tạp kịch thời nhà Nguyên thâu hóa và chuyển thể các tác phẩm văn học Trung Quốc cổ đại. Trong một vở thường có bốn hồi và đôi khi có thêm phần phi lộ. Vai chính phải hát trong thời gian diễn suốt vở kịch. Dù các nhạc phổ của Nguyên khúc không còn giữ được, nhưng qua hình ảnh và các tư liệu còn lại, người ta đã phát hiện các loại nhạc cụ gồm sáo, trống, não bạt.
Các nhân vật trong tạp kịch thời nhà Nguyên là anh hùng, văn nhân, kỹ nữ, cường đạo, quan tòa, ẩn sĩ, và các vai siêu nhiên (ma, quỉ, v.v...).
Đến thời nhà Thanh thì Côn khúc được gọi là Nhã bộ, rất được giới sĩ phu trí thức hâm mộ. Vào giai đoạn Côn Khúc suy tàn, các loại hí kịch địa phương mới có dịp nở rộ và được gọi theo tên địa phương như Xuyên kịch của vùng Tứ Xuyên, Tương kịch của vùng Tương Dương, cho đến Cống kịch, Huy kịch, v.v... mà sau này tất cả được gọi là chung là Kinh Kịch. Kinh kịch đôi khi được diễn giải là loại hát kịch ở Bắc Kinh.
Từ năm Càn Long thứ 55 đời Thanh (1790), bốn gánh hát Huy ban (loại kịch của tỉnh An Huy - TQ) từ phía nam đại lục Trung Quốc bắt đầu lần lượt đến Bắc Kinh. Gánh Huy ban đầu tiên vào kinh là gánh hát Tam Khánh, do Giang Hạc Đình - một chủ buôn muối ở Dương Châu người An Huy - tổ chức, Cao Lãng Đình chỉ huy. Họ chủ yếu hát làn điệu Nhị Huỳnh (Nhì Voòng) kèm theo là một số làn điệu khác như: Côn, Tú Bình, Bạt tử do làn điệu và kịch bản rất phong phú nên đã nhanh chóng áp đảo làn điệu Tần đang thịnh hành ở Bắc Kinh, rất nhiều diễn viên ở các gánh hát hát điệu Tần đã chuyển sang các gánh Huy ban, tạo nên sự kết hợp giữa hai làn điệu Huy và Tần. Do làn điệu Tây Bì là phát xuất từ điệu Tần nên có thể nói rằng đây là lần hợp lưu thứ nhất giữa hai làn điệu Nhị Huỳnh và Tây Bì. Sau đó ba gánh hát Huy ban là Xuân Đài, Tứ Hỉ, Hoà Xuân cũng đến Bắc Kinh. Trên sân khấu kinh kịch lại có một biến chuyển lớn. Loại hình Côn kịch thịnh hành nhiều năm đến đây suy yếu, các diễn viên Côn kịch phần lớn cũng chuyển sang các gánh Huy ban. Đến khoảng những năm Đạo Quang nhà Thanh, các diễn viên ở Hồ Bắc là Vương Hồng Quý, Lý Lục, Dư Tam Thắng đến Bắc Kinh mang theo điệu hát Sở (điệu Tây Bì) nên đã tạo nên sự hợp lưu lần thứ hai giữa hai làn điệu Nhị Huỳnh và Tây Bì ở kinh sư, tạo nên loại hình gọi là "Bì Huỳnh hí”
"Bì huỳnh hí" hình thành ở Bắc Kinh, chịu ảnh hưởng của các làn điệu và ngữ âm Bắc Kinh nên mang các đặc điểm và tiếng nói Bắc Kinh. Do họ thường đến Thượng Hải biểu diễn nên người Thượng Hải mới gọi loại hình "Bì huỳnh hí" mang đặc điểm Bắc Kinh này là Kinh Kịch.
2. Lịch sử phát triển:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, qua hội nhập trong suốt mấy chục năm, Kinh kịch mới được hình thành và trở thành loại tuồng sân khấu lớn nhất Trung Quốc. Về số lượng phong phú của Kinh kịch, số lượng nghệ nhân biểu diễn, số lượng các đoàn Kinh kịch, số lượng khán giả xem Kinh kịch, cũng như sự ảnh hưởng sâu rộng của Kinh Kịch đều đứng đầu Trung Quốc. Hồi đó, không những tuồng sân khấu dân gian rất phồn thịnh, mà trong Hoàng cung cũng thường xuyên tổ chức biểu diễn tuồng sân khấu. Bởi vì các Hoàng gia quý tộc thích xem Kinh Kịch, điều kiện vật chất ưu việt trong cung đình đã cung cấp sự giúp đỡ về các mặt biểu diễn, quy chế về trang phục, hóa trang mặt nạ, phông cảnh sân khấu v v ... sân khấu tuồng dân gian trong hoàng gia quý tộc và dân gian ảnh hưởng lẫn nhau, khiến Kinh kịch đã có sự phát triển chưa từng có. Những năm 40 của thế kỷ 20, là giai đoạn thứ hai cao trào của Kinh kịch, tiêu chí phát triển Kinh kịch trong giai đọan này là sản sinh rất nhiều trường phái khác nhau, nổi tiếng nhất là bốn trường phái lớn đó là Mai Lan Phương (1894--1961), Thượng Tiểu Vân (1990--1975), Trình Nghiên Thu (1904--1958), Tuân Huệ Sinh (1900--1968). Mỗi trường phái lớn trên đây laị có hàng loạt diễn viên nổi tiếng, họ có mặt sôi nổi trên sân khấu của các thành phố lớn như Thượng Hải, Bắc Kinh, nghệ thuật sân khấu Kinh kịch vào một thời điểm phát triển mạnh mẽ. Mai Lan Phương là một trong những nhà nghệ thuật Kinh kịch nổi tiếng nhất thế giới, ông tập biểu diễn Kinh kịch từ năm lên 8, năm 11 tuổi đã ra mắt công chúng trên sân khấu. Trong cuộc đời nghệ thuật sân khấu suốt hơn 50 năm, ông đã có nhiều sáng tạo và phát triển về các mặt giọng ca Đào, bạch thoại, động tác múa, âm nhạc, trang phục, hóa trang v v ... hình thành phong cách nghệ thuật độc đáo. Năm 1919, ông Mai Lan Phương dẫn đoàn Kinh kịch sang Nhật biểu diễn, Kinh kịch lần đầu tiên được truyền bá ra hải ngoại; năm 1930, ông lại dẫn đoàn Kinh kịch sang Mỹ biểu diễn, thu được thành công lớn; năm 1934, ông nhận lời mời dẫn đoàn sang châu Âu biểu diễn, được giới sân khấu châu Âu coi trọng. Sau đó, các nơi trên thế giới đã coi Kinh kịch là trường phái sân khấu Trung Quốc .
(Ảnh : Mai Lan Phương, Trình Nghiên Thu, Tuân Huệ Sinh, Thượng Tiểu Vân)
Kể từ khi Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách mở cửa, Kinh kịch lại có sự phát triển mới. Là tinh hoa nghệ thuật truyền thống dân tộc, Kinh kịch đã được chính phủ Trung Quốc ra sức nâng đỡ. Ngày nay, Nhà hát lớn Trường An quanh năm đều diễn nhiều vở Kinh kịch, các cuộc thi biểu diễn Kinh kịch Quốc tế đã thu hút nhiều người hâm mộ Kinh kịch trên thế giới tham gia, Kinh kịch là chương trình bảo lưu trong giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc với nước ngoài.
Mai Lan Phương
Trong Kinh kịch thường hay có các màn nhào lộn, xiếc, và diễn trò và không có vị trí gì trong võ thuật Trung Hoa. Nhưng võ thuật Trung Hoa đã thâm nhập vào loại hình nghệ thuật này và góp sức làm giàu thêm cho khung cảnh văn hóa Trung Hoa
Võ thuật là một trong những yếu tố phổ biến trong Kinh kịch
Sau này các diễn viên Kinh kịch được đào tạo bài bản thường chuyển sang thành các diễn viên võ thuật trong điện ảnh như Quan Đức Hưng là người đầu tiên diễn vai Hoàng Phi Hồng, Thành Long (còn gọi là Jackie Chan) trong các thể loại phim võ hài do anh đổi mới phong cách cùng với Hồng Kim Bảo (Hong Sammo) để thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của thể loại phim Kungfu của Lý Tiểu Long khởi xướng từ cuối thập kỷ 1960, Lục Tiểu Linh Đồng trong vai Tôn Ngộ Không trong bộ phim truyền hình nhiều tập Tây Du Ký được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Ngô Thừa Ân thời nhà Minh, ...
Tôn Ngộ Không trong vở Tây Du Kí
Có thể nói rằng Kinh kịch đã góp phần làm phong phú diện mạo của điện ảnh Hồng Kông và Trung Quốc hiện đại. Do đó có người cho rằng trong thể loại phim quyền cước của Hồng Kông có hai loại võ thuật là võ thuật thật sự của các võ sư và quyền sư tham gia diễn và võ thuật sân khấu của những diễn viên Kinh kịch chuyển sang.
II. Đặc điểm của kinh kịch:
1. Nội dung các vở kịch:
Nội dung trong kinh kịch vô cùng phong phú, số lượng được biết đến đã là trên năm ngàn kịch bản, trong đó rất nhiều vở vô cùng quy mô, hoành tráng, làm thành những bộ kịch bản, nội dung chủ yếu là những câu chuyện lịch sử - Đó là những câu chuyện phản ánh thói quen cuộc sống của Trung Quốc cổ đại (cách thức sinh hoạt, thói quen phong tục, v.v). Có thể kể những bộ kịch bản để lại ảnh hưởng lớn như: Tam Quốc, Thuỷ Hử, Tây du kí, Nhạc Phi - Nhạc gia quân, Thanh quan hí, Thần thoại hí, Bạch xà hí, Hồng lâu hí
Người ta còn có thể tìm thấy trong kinh kịch niềm ngưỡng vọng đoái tiếc đối với một xã hội có truyền thống võ trị, ở đó những chiến công hiển hách nhất là đoạt lại chính nghĩa bằng thảo phạt, gìn giữ đạo lý và tình người bằng uy vũ. Các đoạn võ thuật trong kinh kịch thường trả lời cho nỗi đau xé ruột khi người thân, anh em, chủ tướng bị hãm hại; bằng lưỡi gươm và đầu rơi máu chảy, nhưng đối với khán giả kinh kịch, điều đó dần chỉ còn ý nghĩa diệt trừ cái ác. Từ nguyên gốc là những điển tích Trung quốc cổ xưa vốn nhuốm màu dã sử và quan niệm dân gian khoáng đạt, thừa hưởng thành tựu rực rỡ của giai đoạn tiểu thuyết Minh- Thanh, kinh kịch càng đi sâu vào đời sống càng trở thành đại diện sâu xa thiết thân của thẩm mỹ đại chúng Trung Hoa, đơn giản là vun đắp cho tình người và loại trừ điều phi nghĩa.
2. Hình thức biểu diễn:
Phong cách Kinh kịch khá đơn giản, tự nhiên, diễn các truyện văn học và lịch sử quen thuộc, bao gồm các loại: văn hí (tuồng dân sự), vũ hí (tuồng chiến tranh), đại hí (tuồng anh hùng), và tiểu hí (tuồng hài hước). Đầu thế kỷ XIX, Kinh kịch chiếm địa vị độc tôn trên sân khấu, thay thế hẳn Côn khúc, và trở thành loại kịch phổ biến nhất Trung Quốc.
Nghệ thuật Kinh kịch Trung Quốc làm nổi bật các đặc điểm: tập trung, khái quát và khoa trương của hí kịch, hình thành một hệ thống hoàn chỉnh, đồng bộ: hát, nói, diễn, đánh võ và một phong cách thống nhất khi biểu diễn mang sắc thái mới mẻ và cảm giác tiết tấu mạnh mẽ.
Hình thức nghệ thuật biểu diễn Kinh Kịch chủ yếu là: Xướng (hát); Niệm (nói); Tố (điệu bộ) và Đả (võ thuật).
“Xướng” làn điệu của Kinh kịch chủ yếu là Tây Bì và Nhị Huỳnh. Điệu Tây Bì hát cùng với hồ cầm 63 dây giai điệu hoạt bát, rộn ràng, rắn rỏi mạnh mẽ, hát lên nghe nhanh rõ, rành mạch, thích hợp biểu diễn các trạng thái tâm lý tình cảm mạnh như vui sướng, kiên nghị hoặc phẫn nộ Điệu Nhị Huỳnh hát với hồ cầm 52 dây, giai điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, sâu sắc trữ tình, hát lên nghe lưu loát thư thái, thích hợp thể hiện trạng thái tình cảm trầm tư, bi thương, cảm khái Cả hai làn điệu Tây Bì và Nhị Huỳnh lại đều có các tiết tấu khác nhau rất đa dạng. Do kinh kịch dùng trống và phách (bản gỗ) để chia ra các tiết đoạn, nên các tiết đoạn trong kinh kịch được gọi là "bản" hoặc "bản nhãn".
"Niệm" (nói) trong kinh kịch là nói một cách có nhạc tính cao, còn gọi là "đạo bạch". Những câu ngắn có thể nói như bình thường, nhưng chủ yếu là nói một cách có vần điệu, gọi là "vận bạch".
"Tố" (điệu bộ) trong kinh kịch chỉ các động tác mang tính vũ đạo cao, và sự biểu lộ của gương mặt cũng như tư thái thân thể. Do chúng có những mô thức và quy định khá nghiêm khắc nên chúng đều là những động tác được trình thức hoá. Ví dụ như trong việc thể hiện bước đi cũng phải có điệu bộ nhất định: các vai nữ khi đi, gót chân phải luôn chạm đất; các vai quan lại khi đi thì lại phải nhấc chân, bước kiểu "tứ phương bộ" Nhân vật đặc thù có những kiểu bước chân đặc thù như Võ Đại Lang phải đi kiểu đi của người lùn Ngồi ghế cũng có những tư thế nhất định, như vai lão ông hay những vai nam dũng mãnh chỉ được ngồi nửa ghế phía trước, thực tế là nửa đứng, nửa ngồi; những vai nữ dũng mãnh, đanh đá và các vai hề có thể ngồi gác chân chữ ngũ, còn lại các loại vai khác đều không cho phép. Những vai quan văn khi ra trò phần lớn phải làm động tác sửa mũ, vuốt râu; võ tướng khi ra trò thì phải làm động tác vận giáp, sốc mũ trụ, thể hiện sửa sang nhung y, chuẩn bị cho biểu diễn uy vũ.
"Đả" (võ thuật) là hình thức biểu diễn thứ tư trong kinh kịch, chỉ những động tác biểu diễn chiến đấu, võ thuật mang tính vũ đạo cao. Một loại là diễn võ tay không, không dùng binh khí, một loại khác là diễn võ với binh khí như: đao, thương, kiếm, kích đủ loại vũ khí của thập bát ban võ nghệ, phần lớn đều có tốc độ rất nhanh, phối hợp chặt chẽ với tiết tấu của trống, thanh la ban võ. Rất nhiều cảnh hai quân giao chiến đều được biểu diễn như vậy.
"Xướng, niệm, tố, đả" là bốn hình thức biểu diến cơ bản của kinh kịch, cũng là bốn kỹ năng biểu diễn của diễn viên, nên trong giới kinh kịch người ta gọi là "tứ công".
Biểu diễn kinh kịch không thể tách rời khỏi dàn nhạc. Dàn nhạc trong kinh kịch được phân làm "văn trường" và "vũ trường". "Văn trường" chỉ đàn sáo, chủ yếu có các nhạc khí như: hồ cầm, nhị hồ, đàn nguyệt, sáo, kèn dùng cho các lớp "văn". "Vũ trường" chỉ bộ gõ, nhạc khí chủ yếu có: phách, trống, thanh la, não bạt, chuông, chủ yếu dùng tạo không khí cho các đoạn biểu diễn cảnh giao đấu, võ thuật (lớp "võ"), lớp "văn" đôi khi cũng có sử dụng. Khi biểu diễn kinh kịch, dùng trống và phách để chỉ huy phải phải nắm vững các bước của âm nhạc cũng như diễn xướng: phối hợp chặt chẽ với các động tác của diễn viên, điều tiết tiết tấu hoặc làm nền cho diễn viên hát hoặc nói. Phách và trống do một nhạc công kiêm sử dụng. Nhạc khí phụ hoạ còn có thể dùng mô phỏng một cách sinh động những tiếng động trong cuộc sống như: tiếng trống, tiếng thanh la cầm canh để biểu hiện thời gian sớm tối; hay tiếng gió, tiếng sám, tiếng ngựa hí, gà gáy Những diễn viên không biểu diễn mà chỉ hát phụ hoạ được gọi là "thanh xướng"; còn những diễn viên vừa hát, vừa biểu diễn, do phải hoá trang, nên gọi là "thái xướng" ("thái" có nghĩa là màu sắc).
Nguyệt cầm Hồ cầm
Nhị hồ và tiêu
Tỏa nột (kèn) Trống
Não bạt
Dàn nhạc trong kinh kịch
3. Các loại vai diễn:
Các vai nam trong kinh kịch gọi là "sinh" (giống như kép trong sân khấu truyền thống Việt Nam) được phân thành: lão sinh, tiểu sinh và võ sinh.
"Lão sinh" là những nhân vật lão (từ trung niên trở lên), nên phải đeo râu giả, vì vậy còn gọi là "tu sinh" (tu nghĩa là râu). Trình Trường Canh - người sáng lập nên kinh kịch cũng là người diễn vai lão sinh nổi tiếng.
Lão sinh
"Tiểu sinh" chỉ những vai nam thanh niên, lại chia nhỏ ra gồm: cân sinh (đội khăn mền, thiên về văn); trĩ vĩ sinh (đội mũ cắm lông đuôi trĩ, thiên về võ); cùng sinh (nhân vật bần hàn, mặc áo vá); quan sinh (những vị quan trẻ, mặc quan phục).
"Võ sinh" chỉ những nhân vật biết võ nghệ, lại phân ra: "trường kháo"- là nhân vật mặc khôi giáp, dùng vũ khí dài như thương, kích phần lớn là võ tướng; "đoản đả" - là nhân vật dùng binh khí ngắn như dao, kiếm hoặc tay không. Võ sinh còn có một nhiệm vụ đặc thù là diễn hầu hí - đóng Tôn Ngộ Không trong các vở kịch lấy tích từ Tây Du kí.
Trĩ vĩ sinh
Các vai nữ trong kinh kịch được gọi là "đán" (giống như đào trong sân khấu truyền thống Việt Nam). Theo tuổi tác người ta phân ra "lão đán" và "tiểu đán"; theo tính cách nhân vật lại phân ra "thanh y" và "hoa đán", theo võ công phân ra:
“võ đán” và “đao mã đán”.
"Lão đán" là những nhân vật nữ già (vai mụ) hát, nói theo giọng thật gần giống với người già.
“Hoa đán” chỉ những nhân vật nữ đanh đá, mạnh mẽ hoặc phóng đãng (đào lệch).
Những nhân vật nữ trang trọng, nhã nhặn thường mặc trang phục màu xanh, đen nên được gọi là "thanh y" (đào thương).
"Võ đán" chỉ các nhân vật nữ biết võ nghệ, làm việc nghĩa hiệp, thường biểu diễn tung bắt vũ khí trong các kịch thần thoại.
"Đao mã đán" chỉ những nhân vật nữ mặc giáp phục, mang vũ khí, động tác biểu diễn vừa anh dũng thiện chiến, vừa duyên dáng mềm mại đầy nữ tính.
Đao mã đán
Những nhân vật xấu xí, hài hước (vai hề) trong kinh kịch được gọi là "sửu" (chữ "sửu" có nghĩa là xấu). Sửu chủ yếu phân thành ba loại : văn sửu, võ sửu và tiểu sửu. Võ sửu là những vai sửu biết võ nghệ, thường kiêm diễn hầu hí. Văn sửu thường là những vai hề gây cười, không biểu diễn võ thuật, đầu đội khăn của văn nhân nên còn gọi là "phương cân sửu". Trong văn sửu có một loại là những vai quan lại gọi là "quan sửu".
4. Hóa trang:
4.1 Nghệ thuật vẽ mặt:
Một trong những đặc trưng của kinh kịch là nghệ thuật vẽ mặt. Hầu hết các vai trong kinh kịch đều phải vẽ mặt, song đặc sắc nhất là của các vai nam. Các vai nam được vẽ mặt gọi là "tịnh" hay "hoa kiểm" (mặt vẽ). (Những vai "sửu" thường vẽ một vệt trắng ở mũi nên gọi là "tiểu hoa kiểm" hay "tam hoa kiểm").
Các diễn viên được vẽ mặt với các loại màu sắc và các loại hình hoa văn nhằm thể hiện những đặc điểm về tướng mạo cũng như tính cách của nhân vật. Có thể vẽ toàn khuôn mặt cơ bản là một màu sắc (gọi là "chỉnh kiểm"); cũng có thể khuôn mặt được vẽ nhiều màu sắc với các đường nét phức tạp (gọi là "toái kiểm"). Hình vẽ hai bên khuôn mặt có thể không đối xứng, nhưng thường là đối xứng nhau. Trên mặt cũng có thể vẽ những hình tượng động vật thì gọi là mặt tượng hình ...
Sắc màu vẽ trên mặt thể hiện những tính cách, phẩm hạnh của nhân vật như: màu đỏ biển thị người trung liệt, chính nghĩa, màu trắng biểu thị người nham hiểm, xảo trá; màu tía biểu hiện người cứng rắn cương trực, màu vàng biểu thị người dũng mãnh, hung bạo, màu xanh biểu thị người ngoan cường, màu hoàng kim biểu thị thần phật
Với những nhân vật khác nhau thì lại có các quy định khác nhau về cách vẽ mặt, được gọi là "kiểm