Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D

Singapore là một trong số ít các quốc gia thu hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chất lượng cao, đặc biệt là FDI vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D). Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay, sự xuất hiện của các dự án đầu tư FDI trong lĩnh vực R&D được kỳ vọng nhằm đưa Việt Nam không chỉ trở thành một trung tâm gia công lớn trên thế giới, mà còn là nơi cho ra đời những phát minh khoa học mới. Vì vậy, việc học tập kinh nghiệm thu hút FDI trong lĩnh vực này của Singapore sẽ là bài học quý báu đối với Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh về “chất” trong thu hút FDI. Bài viết sẽ tìm hiểu kinh nghiệm cải thiện môi trương đầu tư thu hút FDI vào R&D của Singapore, trong đó tập trung vào sử dụng chính sách tài chính và chính sách sở hữu trí tuệ trong thu hút FDI vào R&D.

pdf7 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 698 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
85 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019 Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Đoàn Vân Hà Ngày nhận: 26/09/2018 Ngày nhận bản sửa: 27/12/2018 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019 Singapore là một trong số ít các quốc gia thu hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chất lượng cao, đặc biệt là FDI vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D). Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay, sự xuất hiện của các dự án đầu tư FDI trong lĩnh vực R&D được kỳ vọng nhằm đưa Việt Nam không chỉ trở thành một trung tâm gia công lớn trên thế giới, mà còn là nơi cho ra đời những phát minh khoa học mới. Vì vậy, việc học tập kinh nghiệm thu hút FDI trong lĩnh vực này của Singapore sẽ là bài học quý báu đối với Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh về “chất” trong thu hút FDI. Bài viết sẽ tìm hiểu kinh nghiệm cải thiện môi trương đầu tư thu hút FDI vào R&D của Singapore, trong đó tập trung vào sử dụng chính sách tài chính và chính sách sở hữu trí tuệ trong thu hút FDI vào R&D. Từ khoá: FDI, R&D, đổi mới sáng tạo, chính sách, Châu Á. 1. Giới thiệu iệc quốc tế hoá hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của các công ty đa quốc gia (MNCs) đã được đề cập đến trong một thập kỷ gần đây. Hoạt động R&D đã được dịch chuyển sang chi nhánh ở các nước khác chứ không chỉ tập trung ở tại trụ sở chính. Điều này là do sự phát triển và trỗi dậy nhanh chóng của các quốc gia mới nổi, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Quốc trong hệ thống đổi mới sáng tạo toàn cầu (Bruche, 2009; Kroll and Schiller, 2010); và kiến thức mới để thích ứng với sản phẩm và quy trình sản xuất tại các quốc gia khác nhau (Carlsson, 2006). Chính sách để có thể thu hút và phát huy hiệu quả của FDI vào R&D của các quốc gia bao gồm các nhóm chính sách về: (1) Cải thiện môi trường đầu tư R&D; (2) thúc đẩy dòng vốn FDI vào R&D; (3) các chính sách để hấp thụ FDI vào R&D; (4) chính sách hấp thụ lợi ích của đầu tư FDI vào R&D ra bên ngoài (Guimon, 2011). Trong khi nhóm chính sách về hấp thụ FDI vào R&D trong nước và hấp thụ lợi ích của FDI vào R&D từ trong nước ra nước ngoài sẽ tập trung vào việc làm thế nào để quốc gia có thể hấp thụ hết lợi ích mà FDI vào R&D mang đến chuyển hoá thành lợi thế cạnh tranh của mình, thì nhóm THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 86 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 chính sách về cải thiện môi trường đầu tư R&D và thúc đẩy dòng vốn FDI vào R&D là bài toán làm thế nào để thu hút FDI chất lượng cao. Môi trường đầu tư cho R&D thuận lợi là điều kiện đầu tiên để có thể có thể thúc đẩy dòng vốn FDI vào R&D. Trong một thời gian dài, Việt Nam tập trung thu hút FDI, tuy nhiên môi trường đầu tư mới chỉ đáp ứng cho những ngành công nghệ thấp và dệt may gia công là chủ yếu và tỷ lệ FDI vào R&D của Việt Nam là rất nhỏ so với các ngành khác. Hiện nay, Việt Nam đang phải cạnh tranh với nhiều quốc gia như Thái Lan, Indonessia... để thu hút dòng FDI vào R&D. Vì vậy, bài viết tập trung vào nhóm chính sách cải thiện môi trường đầu tư để thu hút FDI vào R&D qua việc tìm hiểu kinh nghiệm của Singapore, từ đó rút ra những bài học có thể áp dụng cho Việt Nam. 2. Các nhân tố tác động tới thu hút FDI vào R&D FDI mang lại nhiều lợi ích cho nước chủ nhà. Lợi ích của FDI đối với nền kinh tế chủ nhà vượt qua cả khả năng sản xuất và tăng cường xuất khẩu vì nó hiện thực hoá sự lan toả kiến thức thông qua tương tác giữa công ty đa quốc gia với toàn bộ hệ thống sản xuất của một quốc gia. MNCs thông qua FDI đã đẩy nhanh và tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và tiếp cận các chiến lược quản lý và tiếp thị từ các nước phát triển tới quốc gia sở tại. Đặc biệt, dòng vốn FDI vào R&D có thể mang lại lợi ích đáng kể cho nước chủ nhà bằng cách nâng cao năng lực công nghệ và cho phép tiếp cận thị trường nước ngoài và tích hợp hơn vào các mạng đổi mới toàn cầu (Cantwell và Piscitello, 2001; Carlsson, 2006). Theo nhiều tác giả, FDI mang đổi mới sáng tạo tới các quốc gia thông qua các cơ chế như liên kết ngược, liên kết chuyển tiếp, hiệu ứng cạnh tranh và ảnh hưởng đến hình thành vốn nhân lực (Berger và Diez, 2008; Popescu, 2014; Jinji Naoto và Xingyuan Zhang, 2013). MNCs toàn cầu hoá địa điểm hoạt động R&D của mình là bởi vì hiện nay họ chỉ được thị phần thông qua cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của mình. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giờ được định nghĩa là "khả năng sản xuất các sản phẩm công nghệ cao và khác nhau", ảnh hưởng đến năng suất dài hạn và được chấp nhận là một nhân tố quan trọng cho hiệu quả tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Nói một cách khác, khả năng cạnh tranh không còn chỉ được xác định bởi nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú hay nguồn cung cấp các yếu tố sản xuất mà là R&D và đổi mới sáng tạo. Do cấu Bảng 1. Các công cụ chính sách cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy FDI vào R&D Cải thiện môi trường đầu tư vào R&D Thúc đẩy FDI vào R&D Sự sẵn có lao động có tay nghề cao Tập trung vào R&D trong các hoạt động xúc tiến đầu tư FDI Chất lượng của các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, công viên công nghệ và cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ khác Xúc tiến quốc tế về khả năng công nghệ quốc gia Tài chính và các ưu đãi tài chính cho công ty R&D: tăng cường ưu đãi so với các nước khác và tạo thuận lợi cho việc thực hiện trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ R&D Các dịch vụ trước đầu tư Khuyến khích hợp tác cả trong Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và xuyên biên giới Các dịch vụ sau đầu tư Phát triển thị trường dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ then chốt: Chính phủ có thể khuyến khích các công ty nước ngoài tham gia vào R&D địa phương thông qua việc mua sắm công Chế độ quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng và có thể thực thi Nguồn: J. Guimon, 2011 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 87Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 trúc năng động của cạnh tranh quốc tế, việc các quốc gia hoặc doanh nghiệp phát triển công nghệ và sản phẩm mới là điều tất yếu. Trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư FDI, bên cạnh chiến lược của công ty thì quyết định chọn địa điểm của các công ty đa quốc gia bị tác động bởi sự sẵn có của hạ tầng cơ sở nghiên cứu và lao động có tay nghề cao (EIU, 2004; Cantwel và Iammarino, 2001; Dunning and Lundan, 2009), tính năng động của hệ thống đổi mới sáng tạo (NIS) của một quốc gia. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy, để có thể thu hút FDI vào R&D, các quốc gia cần có chính sách cải thiện môi trường đầu tư vào R&D bên cạnh chính sách thu hút FDI vào R&D với các công cụ khác nhau (Bảng 1). Như vậy, để có thể thu hút thành công FDI vào R&D, thì quốc gia cần làm song song việc để tạo lợi thế của mình so với các quốc gia khác: Một là có môi trường FDI vào R&D hấp dẫn, được thể hiện ở cơ sở hạ tầng nghiên cứu, ưu đãi tài chính cho FDI vào R&D, chính sách bảo hộ quyền sở hữu; hai là các chính sách thúc đẩy làm marketing để quốc gia mình trở nên hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư. 3. Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện môi trường đầu tư vào R&D 3.1. Quá trình phát triển của Singapore Quá trình phát triển kinh tế của Singapore có thể phân tích qua bốn giai đoạn các thập kỷ. Singapre phát triển từ thâm dụng lao động (labor intensive) trong thập kỷ 60 sang thâm dụng kỹ năng (skill intensive) trong thập kỷ 70, phát triển thành thâm dụng tư bản (capital intensive) trong thập kỷ 80 và thâm dụng công nghệ (technology intensive) trong thập kỷ 90. Hiện nay Singapore đang bước vào giai đoạn 5 (từ năm 2000 đến nay) với đặc trưng là “nền kinh tế tri thức/đổi mới sáng tạo” (Knowledge/Innovation economy), nền kinh tế lấy tri thức và đổi mới sáng tạo làm nền tảng. Trong nền kinh tế tri thức này thì nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn trí tuệ và công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế quan trọng (Nguyễn Trần Quế, 2000). Các chính sách xuyên suốt của Singapore ngay từ khi thành lập nước đến tận giờ là tận dụng vị trí địa lý chiến lược để tạo dựng một trung tâm tự do thương mại và đầu tư. Với đặc điểm là một nước nhỏ với ít ưu thế về tài nguyên ngoại trừ thuận lợi về địa lý, Singapore nhận thức được rất rõ ràng để phát triển kinh tế và nâng cao cuộc sống người dân thì phải dựa vào nguồn lực bên ngoài và nhân lực chất lượng cao. Hội đồng phát triển kinh tế (EDB) được thành lập vào năm 1961 là cơ quan đầu tiên được giao nhiệm vụ xúc tiến hoạt động đầu tư (nước ngoài cũng như trong nước) tại Singapore; và quản lý một số chương trình khuyến khích, bao gồm các ưu đãi tài chính. Các ưu đãi thuế bao gồm: Ưu đãi cho những công ty tiên phong, ưu đãi và hoạt động hỗ trợ đầu tư, và ưu đãi khi đặt trụ sở tại Singapore lần đầu tiên được sử dụng vào những năm 1960 để thu hút FDI thông qua đạo luật Khuyến khích mở rộng kinh tế. Năm 2010, đạo luật này lại một lần được chỉnh sửa để tạo điều kiện cho các dịch vụ kỹ thuật và chuyên nghiệp khác nhau nhằm khuyến khích những ngành bị hạn chế trước đây như ngân hàng, báo chí in ấn, điện tử viễn thông. Cuối những năm 1970- 1980, để có thể cạnh tranh với những quốc gia lân cận có chi phí thấp, Singapore nhận thấy cần phải dịch chuyển lên các hoạt động sản xuất giá trị cao và nâng cấp kỹ năng của lực lượng lao động. Sự tập trung tiếp tục dịch chuyển vào cuối những năm 1980 và 1990 để thúc đẩy các hoạt động sản xuất giá trị cao. Từ năm 2000- 2010, Singapore tập trung thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo và tri thức. Một trong những lĩnh vực quan tâm gần đây là dược phẩm và công nghệ y sinh. Trải qua các giai đoạn phát triển, Singapore đã xây dựng một kết cấu hạ tầng chất lượng cao, môi trường đầu tư ổn định, nền chính trị ổn định và đội ngũ lao động cần cù, có kỷ luật. Singapore đã thu hút được nhiều công ty nước ngoài đầu tư và hoạt động tại Singapore. Theo báo cáo toàn cầu năm 2012, Singapore nằm trong Top 3 về đầu tư và ngoại thương, địa điểm THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 88 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 thuận lợi nhất thế giới cho hoạt động kinh doanh, đứng thứ 2 thế giới và 1 châu Á về quyền sở hữu trí tuệ tốt nhất. Singapore đã sử dụng thành công chính sách tài chính và chính sách sở hữu trí tuệ để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn với những hỗ trợ tài chính, và quan trọng hơn, không có đánh cắp bản quyền, trí tuệ để các nhà đầu tư yên tâm. 3.2. Chính sách tài chính cho R&D Trong giai đoạn đón đầu công nghiệp ở những năm cuối thập kỷ 60, Singapore đã đặt nền móng cho phát triển NIS thông qua khuyến khích FDI khi các công ty này coi Singapore là cơ sở sản xuất nước ngoài sử dụng nhiều lao động và phát triển năng lực nhân sự bằng việc cung cấp các ưu đãi cho MNCs khi gửi các kỹ sư Singapore đến trụ sở để học các kỹ thuật mới. Với mục đích tăng số lượng các công ty nghiên cứu và phát triển tại Singapore, đặc biệt là MNCs, Singapore đã sử dụng ưu đãi thuế về chi tiêu bao gồm các hoạt động tiên phong, hoạt động R&D, trung tâm R&D (bao gồm cả bên Singapore), thiết kế, mua lại quyền sở hữu trí tuệ (IP) và thiết bị tự động hóa Ở giai đoạn 2, tăng cường công nghệ địa phương (giữa những năm 1970 đến cuối những năm 1980), mối liên kết giữa các nhà cung cấp trong nước và người mua là MNCs được khuyến khích bởi Chương trình Nâng cấp Ngành Địa phương (LIUP) với mục tiêu là khuyến khích MNCs chuyển giao bí quyết công nghệ và chuyên môn về nhân sự cho các doanh nghiệp địa phương. Trợ cấp được sử dụng nhiều trong thời gian này như EDB sẽ trợ cấp một tỷ lệ phần trăm của mức lương của một người quản lý của MNC khi làm việc trong doanh nghiệp địa phương trong vòng 2 năm và mức trợ cấp được xác định theo từng trường hợp cụ thể. Giai đoạn 3, mở rộng R&D ứng dụng (cuối những năm 1980 đến cuối những năm 1990), Singapore đưa ra các kế hoạch nghiên cứu (RISC) cho các công ty đăng ký tại Singapore. Việc sử dụng kế hoạch này là khuyến khích các doanh nghiệp thành lập trung tâm R&D ở Singapore và phát triển các năng lực R&D trong khu vực chiến lược về công nghệ. Những dự án nhận được hỗ trợ thường là một cam kết tương đối dài hạn của công ty, mang lại những lợi ích đáng kể cho nền kinh tế Singapore và tăng chi tiêu R&D đáng kể. Các công ty khi tham gia vào kế hoạch này sẽ được hỗ trợ 30- 50% chi phí và các khoản vay sẽ được giải ngân theo phương thức hoàn trả. Giai đoạn 4 là chuyển đổi sang doanh nghiệp công nghệ cao và nghiên cứu phát triển cơ bản (cuối những năm 1990 trở đi), mục tiêu hỗ trợ của Singapore là các khía cạnh khác nhau cần thiết để hỗ trợ các công ty thực hiện đổi mới. Singapore đã có các chương trình tiêu biểu như chương trình Đổi mới Công nghệ (TIP) với các dự án trong chương trình được hỗ trợ 50- 100% chi phí cho các dự án đổi mới sáng tạo của các công ty và liên doanh. Cũng trong chương trình này, đề án cung cấp chuyên gia và vốn cho đổi mới sáng tạo (Innovation Voucher Scheme- IVS) mà gần đây (2012) được thay thế bằng đề án cung cấp vốn cho đổi mới sáng tạo và năng lực (Innovation &Capability Voucher- ICV), giúp tăng cường tiếp cận của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến các chuyên gia trong trường đại học và các viện nghiên cứu công. Theo đó, chính phủ sẽ cung cấp một khoản tiền là $50.000 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để chi trả cho các dịch vụ hỗ trợ liên quan đến đối mới sáng tạo, tăng năng suất, nhân lực và quản lý tài chính. Ngoài ra, đề án Thương mại hóa Doanh nghiệp Công nghệ (TECS) hỗ trợ tới 100% chi phí hợp lệ cho giai đoạn chứng minh ý tưởng- POC (Proof of Concept) với giá trị hỗ trợ tối đa là 250.000 đô la Singapore, và lên đến 85% chi phí cho giai đoạn chứng minh giá trị khả thi- POV (Proof- of Value) với số tiền tối đa là 500.000 đô la Singapore. Để thúc đẩy đổi mới, Chính phủ đưa ra một khung khuyến khích bao gồm các ưu đãi thuế. Ví dụ như các công ty mới thành lập ở Singapore đã được miễn thuế lên đến 200.000 đô la Singapore kể từ năm 2005, trong khi các nhà đầu tư thiên thần (angle investors) đủ điều kiện được khấu trừ thuế từ năm 2010 lên THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 89Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 tới 250.000 đô la Singapore đối với đầu tư của họ vào các công ty khởi nghiệp (IRAS, 2016). Năm 2016, tổng thuế suất của Singapore bằng 18,4% lợi nhuận, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước OECD thu nhập cao ở mức là ở mức 41,2% (WB). 3.3. Chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ Trong nỗ lực nâng cao hơn môi trường đầu tư, Singapore đã tạo dựng được một khuôn khổ tin cậy và hiệu quả về sở hữu trí tuệ (IP) nhằm bảo hộ các tri thức sáng tạo được và đem lại cơ sở công bằng, trong đó tri thức có thể được thúc đẩy để thương mại hoá. Khuôn khổ này hợp thành một kết cấu hạ tầng then chốt, tạo cơ sở cho đổi mới và tăng trưởng kinh doanh trong nền kinh tế đổi mới sáng tạo/kinh tế tri thức. Với tư cách là một bộ phận trong kế hoạch của Singapore để trở thành trung tâm IP, Singapore đã hỗ trợ tăng cường bộ máy pháp lý về IP và các cơ chế thi hành, thúc đẩy nhận thức và phát triển năng lực IP, tăng cường uy tín quốc tế. Văn phòng IP của Singapore (IPOS) đã được thành lập tháng 4/2001, đóng vai trò là cơ quan chính phủ đầu ngành. Học viện IP đã được thành lập tháng 01/2003 để phát triển tri thức và năng lực của Singapore trong công tác bảo hộ, khai thác và quản lý IP. Chế độ IP xuất sắc của Singapore đã giúp Singapore thu hút được thêm các khoản đầu tư mới quan trọng cho ngành Y- sinh, đặc biệt là ngành Dược phẩm. Ngành Y- sinh ở Singapore là một trong những ngành tăng trưởng nhanh nhất, góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của quốc gia. Chế độ IP nghiêm minh cũng giúp cho các nỗ lực đưa Singapore thành trung tâm nghiên cứu phát triển. Chiến lược đưa Singapore trở thành trung tâm IP cũng bao hàm việc tăng cường mối liên kết giữa sáng tạo và khai thác IP. Hoạt động nghiên cứu ở khu vực công của Singapore là một nguồn quan trọng đem lại các phát minh, ý tưởng và đổi mới. Chúng có thể được đưa ra thị trường để tạo ra việc làm, giá trị và của cải cho nền kinh tế Singapore. Đối với các viện nghiên cứu của A*STAR và các trường đại học, công tác thương mại hoá kết quả nghiên cứu đã được coi là hoạt động cốt lõi được tiến hành song song với hoạt động nghiên cứu. Các mô hình tài trợ của Singapore thừa nhận những rủi ro và khoảng thời gian cần thiết để có thể đạt được những thành công quan trọng trong công tác thương mại hoá. Để tối ưu hoá tác động kinh tế của IP do hoạt động nghiên cứu được Chính phủ tài trợ mang lại, Singapore đã hoạch định các chính sách và cơ cấu rõ ràng để quản lý IP một cách hữu hiệu. Các chính sách liên quan đến IP bao gồm: - Cộng tác: Hoạt động R&D hiếm khi được tiến hành một cách tách biệt. Đặc biệt, các quan hệ đối tác nghiên cứu phát triển giữa các tổ chức nghiên cứu của khu vực Chính phủ với khu vực công nghiệp là đặc điểm then chốt của hệ thống đổi mới. Vì vậy, cần phải hoạch định được các hướng dẫn và chính sách rõ ràng và hiệu quả về quyền chiếm hữu, sử dụng và khai thác các IP do hoạt động cộng tác R&D tạo ra để tạo thuận lợi cho những quan hệ đối tác. - Chính sách khuyến khích: Singapore đã đưa ra các biện pháp để kích thích các nhà nghiên cứu thương mại hoá thành quả của họ bằng cách cho phép họ chia sẻ lợi ích về tài chính. Điều này thừa nhận rằng các nhà nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định đường hướng thương mại hoá và có thể không phải luôn quan tâm đến việc thành lập các công ty mới. Một trong những mô hình quan trọng của Mỹ đã được A*STAR áp dụng là phân bổ 1/3 lợi nhuận cho nhà nghiên cứu, 1/3 cho khoa và 1/3 cho nhà trường hoặc bộ phận thương mại hoá. - Các thể chế hỗ trợ: Để quản lý và thương mại hoá IP một cách hiệu quả, cần phải có sự hỗ trợ của các tổ chức chuyển giao công nghệ có kinh nghiệm và được đào tạo tốt, có được thông tin từ các tổ chức Tình báo Cạnh tranh và Công nghệ mạnh. Năm 2002, A*STAR đã thành lập bộ phận thương mại hoá, Exploit Technologies (ET) để kết hợp các nỗ lực quản lý và thương mại hoá IP. ET cung cấp cơ THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 90 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 sở tri thức chuyển giao công nghệ, tích cực tiếp thị IP cho khu vực công nghiệp, đàm phán về cấp phép sử dụng công nghệ, giúp hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra trôi chảy. R&D là một quá trình cần thời gian và tài chính. Các chính sách R&D của Singapore thực hiện ban đầu để các công ty MNC chuyển giao công nghệ người Singapore, để những kiến thức đó trở thành tài sản của Singapore. Giai đoạn sau, để khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước nghiên cứu về R&D, chính phủ Singapore đã có những hỗ trợ về tài chính cho các giai đoạn thử nghiệm trước khi ra thị trường và để đảm bảo tính duy nhất của mỗi nghiên cứu cũng như lợi nhuận có thể mang lại cho doanh nghiệp sau khi thương mại hoá sản phẩm, Singapre đã đồng thời triển khai hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ xuất sắc và chính những bảo đảm về sở hữu trí tuệ lại thúc đẩy các công ty trong nước và nước ngoài yên tâm nghiên cứu
Tài liệu liên quan