Mục tiêu: Đột biến gen p53 trong carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang tạo ra những phân tử protein
không có chức năng nhưng có tính ổn định và tích tụ trong nhân tế bào. Vì vậy, có thể khảo sát các protein đột
biến này bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Gen p53 đột biến trong ung thư bàng quang có ý nghĩa tiên
lượng (tiên lượng xấu, thời gian sống thêm ngắn hơn). Ở Việt Nam tỷ lệ ung thư bàng quang ngày càng phổ
biến hơn, tỷ lệ tái phát cao, tỷ lệ sống sót sau 5 năm ở giai đoạn tiến triển thấp. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề
tài này nhằm: Xác định sự biểu hiện của protein p53, một dấu ấn tiên lượng trong ung thư bàng quang và mối
liên quan của protein p53 với tỷ lệ tái phát, thời gian sống còn trên bệnh nhân carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng
quang sau điều trị và được theo dõi trung bình 36,8 tháng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thiết kế theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt
ngang. Đối tượng nghiên cứu gồm: 106 mẫu bệnh phẩm sinh thiết, phẫu thuật được chẩn đoán giải phẫu bệnh là
carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
5/2005 đến tháng 10/2010. Chúng tôi sử dụng kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch bằng máy tự động Benchmark
Xt của hãng Ventana.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên quan giữa protein p53 với tỷ lệ tái phát và thời gian sống còn trên bệnh nhân Carcimôm tế bào chuyển tiếp bàng quang sau điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 88
LIÊN QUAN GIỮA PROTEIN P53 VỚI TỶ LỆ TÁI PHÁT VÀ THỜI GIAN
SỐNG CÒN TRÊN BỆNH NHÂN CARCIMÔM TẾ BÀO CHUYỂN TIẾP
BÀNG QUANG SAU ĐIỀU TRỊ
Ngô Thị Tuyết Hạnh*, Hứa Thị Ngọc Hà*, Đặng Hoàng Minh*, Trần Lê Linh Phương**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đột biến gen p53 trong carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang tạo ra những phân tử protein
không có chức năng nhưng có tính ổn định và tích tụ trong nhân tế bào. Vì vậy, có thể khảo sát các protein đột
biến này bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Gen p53 đột biến trong ung thư bàng quang có ý nghĩa tiên
lượng (tiên lượng xấu, thời gian sống thêm ngắn hơn). Ở Việt Nam tỷ lệ ung thư bàng quang ngày càng phổ
biến hơn, tỷ lệ tái phát cao, tỷ lệ sống sót sau 5 năm ở giai đoạn tiến triển thấp. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề
tài này nhằm: Xác định sự biểu hiện của protein p53, một dấu ấn tiên lượng trong ung thư bàng quang và mối
liên quan của protein p53 với tỷ lệ tái phát, thời gian sống còn trên bệnh nhân carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng
quang sau điều trị và được theo dõi trung bình 36,8 tháng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thiết kế theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt
ngang. Đối tượng nghiên cứu gồm: 106 mẫu bệnh phẩm sinh thiết, phẫu thuật được chẩn đoán giải phẫu bệnh là
carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang tại Bệnh viện Đại Học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
5/2005 đến tháng 10/2010. Chúng tôi sử dụng kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch bằng máy tự động Benchmark
Xt của hãng Ventana.
Kết quả: Tỷ lệ biểu hiện protein p53 trong carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang: tỷ lệ protein p53 dương
tính 48,1%. Trong đó, dương tính (+++) là 20,7%, chiếm tỷ lệ cao nhất. Thời gian theo dõi sau điều trị và mối
liên quan của protein p53 với tỷ lệ tái phát, thời gian sống còn: Thời gian theo dõi trung bình 36,8 tháng (±
20,10), trung vị là 34 tháng, trong khoảng từ 1 – 74 tháng. Tỷ lệ sống còn toàn bộ là 92,5%, sau 24 tháng tỷ lệ
sống còn toàn bộ là 95,3%. Thời gian sống còn toàn bộ trung bình là 38,2% (±18), ngắn nhất là 5 tháng, dài
nhất là 74 tháng. Tỷ lệ tái phát toàn bộ là 28,3%, sau 24 tháng tỷ lệ tái phát toàn bộ là 21,7%. Thời gian tái phát
trung bình là 16,4 tháng (±17). Tỷ lệ sống còn toàn bộ của nhóm p53 dương tính là 94,1% và nhóm p53 âm tính
là 90,9%. Tỷ lệ tái phát toàn bộ ở nhóm p53 dương tính bằng với nhóm p53 âm tính. Khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (χ2, với p = 0,87). Thời gian tái phát trung bình ở nhóm p53 dương tính là 29 tháng (±19,3), ở nhóm
p53 âm tính là 26,8 tháng (±21,3). Khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Log‐rank, với p = 0,99). Chưa thấy mối
liên quan có ý nghĩa giữa đột biến gen p53 với tỷ lệ tái phát, thời gian sống thêm ở bệnh nhân carcinôm tế bào
chuyển tiếp bàng quang sau điều trị và được theo dõi trung bình 36,8 tháng.
Kết luận: Trong carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang, tỷ lệ protein p53 dương tính 48,1%. Trong đó
dương tính (+++) là 20,7% chiếm tỷ lệ cao nhất. Thời gian tái phát trung bình ở nhóm p53 dương tính là 29
tháng (±19,3), ở nhóm p53 âm tính là 26,8 tháng (±21,3). Khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Log‐rank, với p =
0,99). Chưa thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa đột biến gen p53 với tỷ lệ tái phát, thời gian sống thêm ở bệnh
nhân carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang sau điều trị và được theo dõi trung bình 36,8 tháng.
Từ khóa: carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang, protein p53, thời gian tái phát trung bình, thời gian
sống thêm
*Bộ môn Giải phẫu bệnh, Đại học Y dược TP. HCM ** Bộ môn Niệu Đại Học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.Ngô Thị Tuyết Hạnh ĐT: 0918181722 Email: tuyethanhngo72@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 89
ABSTRACT
RELATION BETWEEN P53 PROTEIN WITH RECURRENCE RATE AND SURVIVAL TIME
IN PATIENTS TRANSITIONAL CELL CARCINOMA OF THE BLADDER
Ngo Thi Tuyet Hanh, Hua Thi Ngoc Ha, Dang Hoang Minh, Tran Le Linh Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 89 ‐ 94
Objectives: P53 gene mutations in bladder transitional cell carcinoma creates non‐functional protein
molecule but is stable and accumulates in the cell nucleus. So, can survey the mutant protein by
immunohistochemistry method. P53 gene mutations in bladder cancer prognostic significance (poor prognosis,
shorter survival). In Vietnam, the rate of bladder cancer more and more popular, high recurrence rate. Therefore,
we make the subject to: Determination of the expression of p53 protein, a marker for prognosis of bladder cancer
and their relationship with p53 protein recurrence rate, survival time in patients with transitional cell carcinoma
of bladder after treatment and mean follow‐up was 36.8 months.
Subjects and Methods: Theme designed by the method of cross‐sectional descriptive study. Subjects of
study include: 106 biopsy specimens, surgical pathology was diagnosed bladder transitional cell carcinoma at the
University Hospital of Medicine and Pharmacy in Ho Chi Minh City from 5/2005 to 10/2010. We used
immunohistochemistry dyeing techniques with its automated Benchmark XT Ventana.
Results: The rate of p53 protein expression in transitional cell bladder carcinoma: p53 protein positive rate
48.1%. In which the positive (+++) is 20.7%, accounting for the highest proportion. Average follow‐up period
36.8 months (± 20.10), median is 34 months, for about from 1‐74 months. Entire remaining life ratio is 92.5%,
after 24 months of life remaining percentage is 95.3% in whole. Entire remaining life time average is 38.2% (±
18). Short least 5 months, lengths least 74 months. The rate of recurrence in whole is 28.3%, after 24 months the
entire recurrence rate is 21.7%. Average recurrence time is 16.4 months (± 17). The percentage of remaining life
of the entire group is 94.1% p53 positive and p53 negative group is calculated at 90.9%. The rate of recurrence in
the entire p53 positive group equal to the group p53 negative. Difference is not statistically meaningful (χ2, with
p = 0.87). Average recurrence time in p53 positive group is 29 months (± 19,3), p53 negative in the group is 26,8
months (± 21.3). Differences do not have statistical significance (Log‐rank, with p = 0.99) Procures have not
demonstrated meaningful related complications between p53 gene with sudden recurrence rates, time patients
live more in carcinoma bladder transitional cell after treatment and follow‐up is 36.8 months on average
Conclusion: In bladder transitional cell carcinoma, the positive rate of p53 protein 48.1%. In which the
positive (+++) is 20.7%, accounting for the highest proportion. Average recurrence time in p53 positive group is
29 months (± 19.3), p53 negative in the group is 26,8 months (± 21.3). Differences do not have statistical
significance (Log‐rank, with p = 0.99). Procures have not demonstrated meaningful related complications
between p53 gene with sudden recurrence rates, time patients live more in carcinoma bladder transitional cell
after treatment and follow‐up is 36.8 months on average.
Key words: bladder transitional cell carcinoma, p53 protein, average recurrence time, survival time
ĐẶT VẤN ĐỀ
Carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang là
u ác tính xuất phát từ biểu mô niệu mạc bàng
quang(7). Trong năm 2010, ở Hoa Kỳ có khoảng
70.500 trường hợp mới mắc ung thư bàng quang
và 14.000 trường hợp tử vong(4) đứng hàng thứ
tư trong các loại ung thư ở giới nam đứng hàng
thứ chín ở giới nữ. Ở Việt Nam, tần suất ung thư
bàng quang thấp hơn so với thế giới và ngày
càng tăng hơn. Theo số liệu thống kê các ung
thư thường gặp tại Hà nội và thành phố Hồ Chí
Minh năm 2003‐2004, ung thư bàng quang đứng
hàng thứ 9 ở nam giới và thứ 11 ở nữ giới, với tỷ
lệ mới mắc tăng(9).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 90
Gen p53 là gen đè nén u được khảo sát nhiều
nhất và đột biến gen p53 tạo ra những phân tử
protein không có chức năng nhưng có tính ổn
định và tích tụ trong nhân tế bào. Vì vậy, có thể
khảo sát các protein đột biến này bằng phương
pháp hóa mô miễn dịch với độ nhạy cảm vào
khoảng 70%. Gen p53 đột biến trong ung thư
bàng quang có ý nghĩa tiên lượng. Ở Việt nam tỷ
lệ ung thư bàng quang ngày càng phổ biến hơn,
tỷ lệ sống sót sau 5 năm ở giai đoạn tiến triển
thấp, tỷ lệ tái phát cao mà hiện nay chưa có
phương pháp nào khác ngoài soi bàng quang để
phát hiện sớm sự tái phát(9). Do vậy, chúng tôi
thực hiện đề tài này nhằm: Xác định sự biểu
hiện của protein p53, một dấu ấn tiên lượng
trong ung thư bàng quang và mối liên quan của
protein p53 với tỷ lệ tái phát, thời gian sống còn
trên bệnh nhân carcinôm tế bào chuyển tiếp
bàng quang sau điều trị và được theo dõi trung
bình 36,8 tháng.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP
Đề tài được thiết kế theo phương pháp
nghiên cứu mô tả cắt ngang. 106 mẫu bệnh
phẩm sinh thiết hoặc phẫu thuật được chẩn
đoán giải phẫu bệnh là carcinôm tế bào chuyển
tiếp bàng quang tại Bệnh viện Đại học Y dược
Thành phố Hồ Chí Minh từ 9/2005 đến 10/2010.
Nhuộm hóa mô miễn dịch p53 với kháng thể
đơn dòng DO‐7 của nhà sản xuất Dako với dấu
chứng p53. Chứng dương: chọn mẫu đã nhuộm
p53 có kết quả dương tính (+++) với p53 biết
trước. Chứng âm không phủ kháng thể thứ
nhất.
Kỹ thuật hóa mô miễn dịch được thực hiện
Tất cả các mẫu trong nghiên cứu đều được
xử lý mô bằng hệ thống máy Citadel hay
Microm và đều được nhuộm bằng máy nhuộm
HMMD tự động Benchmark XT của hãng
Ventana tại bộ môn Giải phẫu bệnh. Quá trình
nhuộm HMMD bằng máy nhuộm tự động được
thực hiện như sau:
Cắt mỏng mẫu mô 3‐5 μm và vớt lên lam.
Khởi động máy vi tính, máy hóa mô tự
động, máy in mã code.
Sấy lam trong 1 giờ ở 560C.
In mã code theo từng kháng thể, dán lên lam
tương ứng.
Để lam lên “giường ủ lam”, đóng khay.
Gắn bộ ultra View Universal DAB Detection
kit (gồm 5 chai: DAB inhibitor, HRP Multimer,
DAB Chromogen, DAB H2O2, DAB Copper)
dùng để phát hiện phức hợp kháng nguyên‐
kháng thể.
Chọn kháng thể để nhuộm: Kháng thể
kháng p53.
Chạy trương trình điều khiển chung đã
được cài đặt sẵn cho máy.
Cài chương trình xử lý và thực hiện quy
trình nhuộm HMMD cho máy.
Máy sẽ khử parafin bằng dung dịch
Ezpred (dung dịch chuyên dụng cho máy
Benchmart XT).
Sau đó máy sẽ phủ lam bằng dầu LCS.
Máy tiếp tục giai đoạn bộc lộ kháng nguyên
bằng dung dịch CC1 ở 950C trong thời gian 30
phút.
Cho kháng thể thích hợp vào từng lam, độ
pha loãng kháng thể của p53 là 1:50. Thời gian ủ
của kháng thể là 32 phút ở 370C.
Máy tự động nhuộm bằng DAB kit.
Giữa các bước nhuộm máy đều rữa lam
bằng dung dịch Reaction buffer trong thời gian 5
phút.
Sau khi máy chạy xong, lấy tiêu bản ra và
rửa bằng xà phòng để loại bỏ lớp dầu LCS phủ
trên tiêu bản. Sau đó nhuộm qua Hematoxylin.
Dán lamen.
Cách đánh giá sự biểu hiện tích tụ quá
mức protein p53
Tế bào được xem là nhuộm dương tính với
p53 khi nhân tế bào bắt màu vàng nâu, bất kể
cường độ bắt màu là đậm hay nhạt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 91
Mức độ nhuộm được đánh giá dựa trên tỷ
lệ % số tế bào u nhuộm dương tính trên tổng số
tế bào u có trên tiêu bản. Có nhiều thang điểm
đánh giá biểu hiện của protein p53.
Chúng tôi chọn cách đánh giá như sau(10).
0: nhân không bắt màu hoặc ≤ 10% bắt màu.
(+): bắt màu từ 11% ‐ 30%.
(++): bắt màu từ 31% ‐ 50%.
(+++): bắt màu từ 51% ‐ 100%.
Âm tính: 0.
Dương tính: (+), (++), (+++).
Tổng kết số liệu bằng phần mềm thống kê
Epidata 3.1, phân tích bằng phần mềm Stata 8.
Phân tích thời gian sống còn bằng phương
pháp Kaplan – Meier. Các yếu tố ảnh hưởng đến
sống còn được kiểm định bằng phép kiểm Log
rank.
Kết quả có ý nghĩa thống kê khi độ tin cậy có
giá trị p < 0,05.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tỷ lệ biểu hiện quá mức của protein p53
Bảng 1: Tỷ lệ biểu hiện quá mức của protein p53.
p53 Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Âm tính 55 51,9%
Dương tính (+) 18 51 17,0 48,1%
Dương tính (++) 11 10,4
Dương tính (+++) 22 20,7
Tổng 106 100,0
Kết quả của nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tích tụ
protein p53 là 48,1%. Trong đó dương tính (+++)
là 20,7 %, dương tính (++) là 10,4 %, dương tính
(+) là 17% (Bảng 1). Như vậy, các mẫu ung thư
có kết quả HMMD dương tính (+++) chiếm tỷ lệ
nhiều nhất trong các kết quả dương tính. Trong
một số nghiên cứu khác, tỷ lệ tích tụ protein p53
trong tế bào carcinôm chuyển tiếp bàng quang
vào khoảng 7‐78%(1). Tỷ lệ biểu hiện của protein
p53 trong các nghiên cứu thay đổi tùy thuộc vào
loại kháng thể sử dụng (sự khác biệt về độ nhạy
của kháng thể trong kỹ thuật HMMD) và tiêu
chuẩn đánh giá dương tính trên mẫu carcinôm
tế bào chuyển tiếp bàng quang. Đa số các tác giả
sử dụng kháng thể của hãng Dako, Đan Mạch,
một số tác giả sử dụng kháng thể pAb1801 của
Novokastro(1). Kháng thể sử dụng trong nghiên
cứu này là DO‐7 với nồng độ pha loãng 1/40 của
hãng Dako với tỷ lệ dương tính khoảng 10‐78%
đối với carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang
có độ mô học thấp và trên 58% đối với carcinôm
tế bào chuyển tiếp bàng quang độ mô học cao.
Tiêu chuẩn đánh giá dương tính với p53 trên
carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng quang rất thay
đổi. Một số nghiên cứu dựa vào tỷ lệ phần trăm
nhân tế bào bắt màu và đậm độ bắt màu(10).
Chúng tôi đánh giá kết quả dương tính khi >
10% tế bào u dương tính với p53 trong nhân tế
bào(12). So sánh với các nghiên cứu khác (Bảng
3.2). Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ protein
p53 dương tính tương tự Ye và cộng sự(11).
Bảng 2: So sánh tỷ lệ biểu hiện p53 với các nghiên
cứu khác.
Tác giả Số ca nghiên cứu
Biểu hiện p53 (%)
Nghiên cứu này 106 48,1
Al – Abadi(1) 147 10
Ye et al(11) 75 50,2
KẾT QUẢ THEO DÕI SAU ĐIỀU TRỊ
Thời gian theo dõi
Có 10 trường hợp mất dấu (người nước
ngoài, Việt kiều, không liên lạc được) và có 8
trường hợp chết.
Thời gian theo dõi trung bình: 36,8 tháng (±
20,10), trung vị: 34 tháng, trong khoảng từ 1 – 74
tháng.
Tỷ lệ và thời gian sống còn toàn bộ
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
0 20 40 60 80
p
Thời gian sống còn (tháng)
Biểu đồ 1: Tỷ lệ và thời gian sống còn toàn bộ.
Thời gian sống còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 92
Tỷ lệ sống còn toàn bộ là 92,5 %, sau 24
tháng là 95,3%.
Thời gian sống còn trung bình là 38,2 tháng.
Ngắn nhất là 5 tháng dài nhất là 74 tháng. Trung
vị thời gian sống còn toàn bộ là 33 tháng.
Tỷ lệ và thời gian tái phát
Thời gian tái phát
Tỷ lệ
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
0 20 40 60 80
p
Thời gian tái phát (tháng)
Biểu đồ 2: Thời gian tái phát.
Tổng số ca tái phát của nhóm nghiên cứu là
30 ca. Tỷ lệ tái phát toàn bộ của nhóm khảo sát
là 28,3%. Tỷ lệ tái phát trong vòng 24 tháng 23 ca
tái phát (21,7%). Thời gian tái phát trung bình
của nhóm khảo sát là 16,4 tháng (±17).
Mối liên quan giữa protein p53 và thời
gian sống còn toàn bộ
Tỷ lệ
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
0 20 40 60 80
p , yp
Thời gian sống còn (tháng)
Biểu đồ 3: Liên quan giữa protein p53 và thời gian
sống còn toàn bộ.
Tỷ lệ sống còn toàn bộ ở nhóm p53 dương
tính 94,1%, ở nhóm p53 âm tính là 90,9%, khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,56 > 0,05).
Tỷ lệ sống còn toàn bộ sau 24 tháng của p53
dương tính là 96,1% và p53 âm tính là 94,6%.
Thời gian sống còn toàn bộ ở nhóm p53
dương tính trung bình là 38 tháng ( 19), ở
nhóm p53 âm tính là 38,8 tháng ( 20,1). Kết
quả phân tích Kaplan ‐ Meier cho thấy không có
sự khác biệt thời gian sống còn giữa nhóm p53
âm tính và nhóm p53 dương tính (Log‐rank, p=
0,50 > 0,05).
Liên quan giữa protein p53 và thời gian tái
phát
Tỷ lệ
0.
00
0.
25
0.
50
0.
75
1.
00
0 20 40 60 80
p , yp
Thời gian tái phát (tháng)
Biểu đồ 4: Liên hệ giữa protein p53 và thời gian tái
phát.
Tỷ lệ tái phát toàn bộ ở nhóm p53 dương
tính là 15 trường hợp bằng nhóm p53 âm tính,
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (χ2, với p
= 0,87).
Thời gian tái phát trung bình ở nhóm p53
dương tính là 29 tháng (độ lệch chuẩn 19,3), ở
nhóm p53 âm tính là 26,8 tháng (độ lệch chuẩn
21,3).
Kết quả phân tích Kaplan ‐ Meier cho thấy
không có sự khác biệt thời gian tái phát giữa
nhóm đối tượng p53 âm tính và nhóm p53
dương tính (Log‐rank, p= 0,99 > 0,05).
Có 10 trường hợp mất dấu (không liên lạc
được) và có 8 trường hợp chết. Các trường hợp
Thời gian tái phát
P53 dương tính
P53 âm tính
P53 Dương tính
P53 âm tính
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 93
còn lại theo dõi trung bình: 36,8 tháng (± 20),
trung vị: 34 tháng, từ 1 – 74 tháng.
Nghiên cứu này, tỷ lệ sống còn toàn bộ là
92,5 %. Sau 24 tháng tỷ lệ sống còn toàn bộ là
95,3 %. Thời gian sống còn toàn bộ trung bình
38,2 tháng (± 18), ngắn nhất là 5 tháng, dài nhất
là 74 tháng. Trung vị thời gian sống còn toàn bộ
là 35 tháng.
Tỷ lệ tái phát toàn bộ của nhóm khảo sát là
28,3%, theo dõi sau 24 tháng tỷ lệ tái phát toàn
bộ là 21,7%. Thời gian tái phát trung bình của
nhóm khảo sát là 16,4 tháng (± 17). Theo
Holmang S(3), tỷ lệ tái phát toàn bộ là 50%, thời
gian tái phát trung bình dài hơn (21,7 tháng).
Nghiên cứu này, tỷ lệ tái phát thấp hơn, thời
gian tái phát trung bình ngắn hơn có lẽ do hiện
nay chất lượng điều trị được nâng cao.
Tỷ lệ sống còn toàn bộ ở nhóm p53 dương
tính là 94,1% và ở nhóm p53 âm tính là 90,9%,
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (χ2, với p =
0,56). Sau 24 tháng, tỷ lệ sống còn toàn bộ của
nhóm p53 dương tính là 96,1% và nhóm p53 âm
tính là 94,6% (Biểu đồ 3.3).
Tỷ lệ tái phát toàn bộ ở nhóm có p53 dương
tính là 15 trường hợp bằng với nhóm p53 âm
tính, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(χ2, với p = 0,87 > 0,05).
Thời gian tái phát trung bình ở nhóm p53
dương tính là 29 tháng (± 19,3), ở nhóm p53 âm
tính là 26,8 tháng (± 21,3). Sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (Log‐rank, với p = 0,99 > 0,05)
(Biểu đồ 3.4).
Nghiên cứu của Hernandez S(2) cho thấy đột
biến gen p53 liên quan có ý nghĩa với tái phát và
sống còn sau 5 năm. Malats N(8) trong nghiên
cứu tổng quan hệ thống từ 117 nghiên cứu trên
3000 bệnh nhân carcinôm tế bào chuyển tiếp
bàng quang nhận thấy đột biến gen p53 liên
quan đến các yếu tố tiên lượng xấu, thời gian
sống thêm ngắn hơn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đột biến
gen p53 có ý nghĩa đến những yếu tố tiên lượng
xấu của bệnh như: độ mô học, xâm nhập mạch
máu. Còn tỷ lệ tái phát và sống còn ở nhóm có
đột biến gen p53 và nhóm bình thường liên quan
không có ý nghĩa thống kê. Có thể do hiện nay
chất lượng điều trị được nâng cao hoặc do cỡ
mẫu của chúng tôi nhỏ nên chưa thấy rõ sự khác
biệt này.
KẾT LUẬN
Trong carcinôm tế bào chuyển tiếp bàng
quang, tỷ lệ protein p53 dương tính 48,1%.
Trong đó dương tính (+++) là 20,7% chiếm tỷ lệ
cao nhất.
Thời gian theo dõi trung bình 36,8 tháng (±
20,10), trung vị là 34 tháng, trong khoảng từ 1 –
74 th