Lỗ dò miệng - xoang do răng: Báo cáo nhân hai trường hợp

Mục tiêu: Trình bày bệnh lý lỗ dò miệng–xoang sau nhổ răng. Qua đó, nêu lên phương pháp phẫu thuật đóng kín lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng kết hợp với nạo vét lấy bỏ mô viêm trong xoang hàm và rút ra nhận xét những ưu, nhược điểm cũng như hiệu quả của phương pháp này. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ca lâm sàng lỗ dò miệng–xoang sau nhổ răng tại khoa tai mũi họng bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Kết quả: Hai trường hợp lỗ dò miệng–xoang được phẫu thuật đóng kín lỗ dò bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng đều cho kết quả tốt. Kết luận: Lỗ dò miệng–xoang do răng là một bệnh lý hiếm gặp, có nhiều phương pháp phẫu thuật đóng kín lỗ dò, nếu không lưu ý chọn phương pháp điều trị thích hợp sẽ dễ dẫn đến thất bại trong điều trị.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lỗ dò miệng - xoang do răng: Báo cáo nhân hai trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 217 LỖ DÒ MIỆNG – XOANG DO RĂNG: BÁO CÁO NHÂN HAI TRƯỜNG HỢP Thái Phương Phiên* TÓM TẮT Mục tiêu: Trình bày bệnh lý lỗ dò miệng–xoang sau nhổ răng. Qua đó, nêu lên phương pháp phẫu thuật đóng kín lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng kết hợp với nạo vét lấy bỏ mô viêm trong xoang hàm và rút ra nhận xét những ưu, nhược điểm cũng như hiệu quả của phương pháp này. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ca lâm sàng lỗ dò miệng–xoang sau nhổ răng tại khoa tai mũi họng bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Kết quả: Hai trường hợp lỗ dò miệng–xoang được phẫu thuật đóng kín lỗ dò bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng đều cho kết quả tốt. Kết luận: Lỗ dò miệng–xoang do răng là một bệnh lý hiếm gặp, có nhiều phương pháp phẫu thuật đóng kín lỗ dò, nếu không lưu ý chọn phương pháp điều trị thích hợp sẽ dễ dẫn đến thất bại trong điều trị. Từ khóa: Lỗ dò miệng–xoang, nắp xoay vòm miệng. ABSTRACT TWO CASES OF ORO-ANTRAL COMMUNICATION BY TOOTH Thai Phuong Phien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 217 – 223 Purpose: Presenting oro-antral communication after tooth extraction. Past due, raising the surgical method to aim closing oro-antral communication with the technique of palatal transposition flap associated with curetting to remove inflamed tissues in the antrum and remarking on the advantages, disadvantages and effectiveness of this approach. Methods: Case study of oro-antral communication after tooth extraction at ENT Ninh Thuan provincial hospital. Results: Two cases of oro-antral communication operated by palatal transposition flap have recognized good results. Conclusions: Oro-antral communication affected by teeth is a rare disease. There are many surgical methods in order closing fistula. If we don’t notice the suitable method, the treatment can be failed. Keywords: Oro-antral communication, palatal transposition flap. ĐẶT VẤN ĐỀ Dò miệng–xoang là một lỗ dò thông từ khoang miệng lên xoang hàm trên, nó được hình thành do biến chứng sau khi nhổ răng hàm trên hoặc do khối u hoặc nhiễm trùng xương(8). Dò miệng–xoang thường ít gặp và ít gây nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân nhưng gây ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt, công việc và làm giảm chất lượng sống của bệnh nhân. Việc điều trị dứt điểm lỗ dò miệng–xoang rất cần thiết cho bệnh nhân trong đó việc phẫu thuật đóng lỗ dò miệng–xoang là phương pháp điều trị then chốt. Việc đóng kín lỗ dò miệng–xoang giúp tái * Khoa Tai Mũi Họng bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Tác giả liên lạc: BS CKII Thái Phương Phiên, ĐT: 0913709978, email: phientmhbvnt@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 218 lập lại cấu trúc bình thường của xoang hàm, ngăn cách xoang hàm với khoang miệng giúp niêm mạc xoang hàm trở lại trạng thái sinh lý, chấm dứt viêm xoang hàm tái diễn và giúp bệnh nhân trở lại với cuộc sống cộng đồng và công việc. Trên thế giới, có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra phương pháp phẫu thuật đóng lỗ dò miệng–xoang với nhiều cách khác nhau và kết quả thành công rất cao. Tuy nhiên ở Việt Nam, cho đến những năm gần đây chúng tôi vẫn chưa tìm thấy có bài viết nào đăng trên các trang web, tạp chí y khoa nhằm trình bày và nhận xét hiệu quả của các kỹ thuật này. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành đề cập đến phương pháp phẫu thuật này với mục tiêu: Trình bày phương pháp phẫu thuật đóng kín lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng kết hợp với phẫu thuật nạo vét lấy bỏ mô viêm trong xoang hàm và rút ra nhận xét những ưu, nhược điểm cũng như hiệu quả của phương pháp này báo cáo nhân hai trường hợp bệnh nhân điều trị tại khoa tai mũi họng bệnh viện tỉnh Ninh Thuận. Sơ lược giải phẫu Xoang hàm trên Là xoang lớn nhất trong các xoang, mỗi xương hàm trên có 1 xoang. Mỗi xoang có một trần, một đỉnh và ba thành. Thành trong là thành ngoài hố mũi. Thành trước tương ứng với mặt trước xương hàm trên.Thành sau là mặt dưới thái dương của xương hàm trên. Đỉnh là mỏm gò má của xương hàm trên. Trần là mặt ổ mắt của xương hàm trên. Nền là mỏm huyệt răng của xương hàm trên, xoang hàm trên liên quan trực tiếp với răng cối lớn thứ nhất do đó sâu răng có thể dẫn đến viêm xoang hoặc gây ra lỗ dò miệng–xoang sau khi lấy bỏ răng này. Niêm mạc xoang hàm trên liên tục với niêm mạc của ổ mũi. Lỗ của xoang hình bầu dục đổ vào ngách mũi giữa ở phễu xương sàng. Ổ miệng Ổ miệng là phần đầu tiên của hệ tiêu hoá, chứa nhiều cơ quan như tuyến nước bọt, răng, lưỡi, có chức năng quan trọng trong nhai, tiết nước bọt, nuốt, nếm và nói. Phía trước thông với bên ngoài qua khe miệng. Phía sau thông với hầu qua eo họng. Các thành bên là má và môi. Phía trên là khẩu cái cứng và khẩu cái mềm. Phía dưới hay còn gọi là nền miệng có xương hàm dưới, lưỡi và vùng dưới lưỡi. Ổ miệng được chia làm hai phần bởi cung răng lợi. Phía trong là ổ miệng chính, phía ngoài là tiền đình miệng. Tiền đình miệng là một khoang hình móng ngựa nằm giữa môi, má và cung răng lợi. Ổ miệng chính có lưỡi di động, có các ống của tuyến nước bọt dưới hàm và dưới lưỡi đổ vào. Cung răng lợi gồm có lợi và răng. Lợi che phủ tất cả các lỗ huyệt răng của xương hàm trên và xương hàm dưới, được cấu tạo bởi mô xơ, phủ bởi niêm mạc và liên tục với niêm mạc tiền đình miệng ở phía ngoài và niêm mạc khẩu cái, nền miệng ở phía trong. Răng là một cấu trúc đặc biệt có nhiệm vụ cắt, xé và nghiền thức ăn khi nhai. Răng sữa chỉ mọc từ 6 tháng đến 30 tháng tuổi, có tất cả 20 răng sữa. Răng vĩnh viễn bắt đầu thay thế răng sữa từ lúc 6 tuổi và hoàn toàn thay thế răng sữa khi 12 tuổi, có tất cả 32 răng vĩnh viễn. Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân gây ra lỗ dò miệng– xoang nhưng nguyên nhân phổ biến nhất vẫn là sau khi răng hàm trên đựơc nhổ bỏ chiếm 48%. Điều này được giải thích bằng mối quan hệ chặt chẽ giữa chân của những chiếc răng hàm trên với độ mỏng của nền xoang hàm. Sau khi răng sâu được lấy bỏ, việc điều trị không tích cực, hố chân răng sau nhổ bị nhiễm trùng và hình thành lỗ dò mệng-xoang về sau. Tiếp theo là sau khi phẫu thuật lấy bỏ khối u hoặc u nang hàm trên chiếm 18,5%, nhiễm trùng xương là 11%. Biến chứng của phẫu thuật xoang hàm trên bằng phương pháp Caldwell-luc chiếm 7,5%. Chấn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 219 thương chiếm 7,5%, u nang chân răng 3,7%, chỉnh sửa lỗ vách ngăn chiếm 3,7%(8). Thông thường lỗ dò có đường kính nhỏ hơn 2mm thì tự đóng lại sau một thời gian ngắn với hỗ trợ tích cực của thuốc kháng sinh chống nhiễm trùng. Nếu lỗ dò có đường kính lớn từ 2mm trở lên thì sau một thời gian sẽ tiến triển thành đường dò vĩnh viễn, cần phải can thiệp bằng phẫu thuật để đóng lỗ dò lại(5). Triệu chứng Lâm sàng(1,5) Viêm xoang hàm do lỗ dò miệng–xoang là tình trạng viêm niêm mạc xoang, không có tổn thương xương. Chỉ xoang hàm một bên viêm nặng mà thôi do vi khuẩn từ khoang miệng qua lỗ dò vào xoang. Mủ chảy vào mũi, có mùi hôi. Bệnh thường gặp ở người lớn do nhổ răng bị tai biến tạo thành đường dò đưa vi khuẩn từ miệng vào xoang hàm hoặc sau khi loại bỏ khối u và u nang xoang hàm, nhiễm trùng xương, chấn thương Bệnh có thể biểu hiện dưới 2 thể: Viêm xoang hàm cấp: Bệnh nhân thường sốt cao, nhức đầu, mất ngủ, vật vã. Đặc biệt là cơn đau, đau từng cơn lan rộng cả hàm trên, mắt, thái dương, trán. Đau tăng khi cử động mạnh hoặc khi người bệnh cúi đầu, đau lan đến các răng hàm trên, ấn vùng dưới ổ mắt đau tăng hơn. Dịch chảy qua lỗ mũi bên xoang bị bệnh, lúc đầu loãng sau trở thành nhầy mủ, mủ có mùi thối. Niêm mạc xoang sẽ bị viêm và một thời gian sau xoang hàm có thể bị viêm mạn tính. Viêm xoang hàm mạn: Người bệnh đôi khi mệt mỏi, nhức đầu, chảy mủ màu vàng xanh bên bị bệnh, chảy nhiều vào buổi sáng sớm, ngửi có mùi thối làm cho người bệnh buồn nôn, đau ít hơn viêm xoang cấp, thường tắc mũi bên xoang bệnh. Thức ăn và nước uống thường theo lỗ dò vào xoang và chảy ra mũi làm cho bệnh nhân hay bị sặc mỗi khi ăn uống. Niêm mạc xoang dày lên và mất độ bóng. Các hình ảnh thực thể lỗ dò miệng–xoang: (Hình 1) Hình 1: Các hình ảnh lỗ dò miệng – xoang do biến chứng sau nhổ răng. Cận lâm sàng Hình ảnh XQ và CT scan: Niêm mạc xoang dày, lòng xoang có tụ dịch và đặc biệt là hình ảnh gián đoạn xương tại vị trí nền xoang nơi tiếp giáp với chân răng đã cho thấy một hình ảnh thông nhau giữa khoang miệng và xoang hàm trên (Hình 2). Hình 2: Các hình ảnh xoang hàm tụ dịch và khuyết xương do biến chứng sau nhổ răng. Phương pháp phẫu thuật Về phần xoang hàm Chúng tôi áp dụng phương pháp phẫu thuật tiệt căn xoang hàm (Phương pháp Caldwell–Luc(7)). Tiến hành vô cảm bằng lindocain 2% tiêm tê tại 4 điểm: Gây tê dây thần kinh hàm trên, gây tê dây thần kinh dưới ổ mắt, gây tê ở hố nanh và gây tê trong hốc mũi. Bộc lộ rãnh lợi môi, dùng dao rạch niêm mạc sát xuống tận xương hố nanh theo chiều ngang, bắt đầu từ vị trí cách dây hãm môi 1 cm, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 220 rạch một đường dài 4 cm và cách bờ chân răng 1 cm. Đục mở xoang hàm. Lấy sạch các bệnh tích trong xoang. Đục mở lỗ dẫn lưu từ xoang sang mũi. Đặt bấc trong xoang dẫn lưu. Tiến hành phẫu thuật vùng khoang miệng: Chúng tôi áp dụng phương pháp ph.ẫu thuật đóng lỗ dò bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng(2,3,6,10,11) Nạo vét sạch đường dò. Lấy bỏ hết màng nhầy, mô viêm cho tới mô khoẻ mạnh thì ngưng. Dùng dao rạch niêm mạc vòm khẩu cái cạnh lỗ dò theo hướng từ sau ra trước rồi quay vòng về lại phía sau tạo thành hình parapol, kích thước tương ứng với kích thước miệng lỗ dò. Sau đó bóc tách niêm mạc đến tận xương tạo thành một mảnh ghép có cuống .Xoay mảnh ghép có cuống này đặt lên miệng lỗ dò giống như một nắp xoay đậy kín miệng lỗ dò. Dùng chỉ khâu đính mép mảnh ghép và miệng lỗ dò lại với nhau (Hình 3A,D,C,D). Hút sạch dịch và máu ở trong ổ miệng và kết thúc phẫu thuật. Hình 3: A: Lỗ dò miệng – xoang do răng. B: Nạo vét sạch đường dò và định dạng mảnh ghép. C: Bóc tách và xoay mảnh ghép đậy lên miệng lỗ dò. D: Khâu đính mép mảnh ghép và miệng lỗ dò lại với nhau. BÁO CÁO HAI TRƯỜNG HỢP Trường hợp 1 Bệnh nhân: Nguyễn Văn P., 35 tuổi, nam. Địa chỉ: Phường Đài Sơn–TP Phan Rang- Tháp Chàm tỉnh Ninh Thuận. Vào viện 8 h ngày 08 tháng 12 năm 2008. Lý do vào viện: Sưng đau má phải tái phát nhiều lần. Bệnh sử: Bệnh khởi phát cách ngày nhập viện 1 năm sau khi bệnh nhân đi nhổ răng sâu 1.6 về thì thường bị sưng đau má phải kèm chảy dịch mủ ra mũi phải có mùi hôi, điều trị nội khoa nhiều đợt nhưng bệnh không khỏi hẳn, thường hay tái phát nhiều lần, Cách ngày nhập viện 6 tháng bệnh nhân đi khám tại bệnh viện tuyến Trung Ương TP Hồ Chí Minh và được chẩn đoán là lỗ dò miệng–xoang do biến chứng sau nhổ răng 1.6, bệnh viện đã tiến hành phẫu thuật lấy sụn vách ngăn đóng lỗ dò nhưng kết quả thất bại và để lại biến chứng thủng vách ngăn mũi. Bệnh nhân vẫn bị viêm xoang hàm phải tái phát, có nước và thức ăn đi vào xoang, chảy ra mũi phải sau mỗi lần ăn uống, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sức khỏe của bệnh nhân. Lần này bệnh nhân xin vào nhập viện để được phẫu thuật điều trị. Thăm khám hiện tại: Toàn thân: Tổng trạng trung bình, da và niêm mạc hồng, không sờ thấy hạch ngoại vi, không thấy biểu hiện thần kinh khu trú. Tại chỗ: Bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng viêm xoang điển hình, không đau nhức, không chảy dịch mủ, Tại vị trí răng 1.6 đã được nhổ bỏ có một lỗ dò, dùng que tăm dò thì thấy lỗ dò thông lên xoang hàm phải. Cận lâm sàng: XQ và CT scan cho hình ảnh dày niêm mạc xoang hàm phải, khuyết xương tại vị trí nền xoang hàm phải nơi tiếp giáp với chân răng 16. Tường trình phẫu thuật Bệnh nhân được vô cảm tiền mê và gây tê tại chỗ bằng lindocain 2%. Bộc lộ rãnh lợi môi trên, dùng dao rạch một đường ngang dài 4 cm cách dây hãm môi trên là 1cm và cách bờ chân răng 1 cm. Bóc tách niêm mạc đến tận xương, bộc lộ hố nanh sau đó đục mở xoang hàm và lấy hết các mô viêm trong xoang hàm và rửa sạch xoang. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Tai Mũi Họng 221 Đặt mèche dẫn lưu và khâu đóng niêm mạc bằng chỉ cromic 4.0. Tiến hành nạo vét làm sạch đường dò, lấy hết các chất nhầy dính và mô viêm. Dùng dao rạch niêm mạc vòm miệng từ sau ra trước rồi quay vòng lại về phía sau vòm miệng ngay cạnh miệng lỗ dò theo hình parapol với kích thước chiều ngang tương ứng với kích thước miệng lỗ. Sau đó bóc tách niêm mạc đến tận xương tạo thành một mảnh ghép có cuống. Xoay mảnh ghép này đặt lên miệng lỗ dò giống như một nắp xoay đậy kín miệng lỗ dò, khâu đính mép mảnh ghép với miệng lỗ dò bằng chỉ vicryl 4.0. Sau mổ bệnh nhân được dùng kháng sinh (Cefotaxim), kháng viêm (Medotase) và giảm đau (Paracetamol) trong 10 ngày, vệ sinh răng miệng hàng ngày bằng nước muối sinh lý, không hỉ mũi và không hút thuốc lá. Tái khám sau 15 ngày, 1 tháng, 3 tháng. Sau 1 tháng bệnh nhân tái khám thì có kết quả rất tốt: Lỗ dò đã được đóng hoàn toàn. Chấm dứt tình trạng viêm xoang hàm tái diễn Trường hợp 2 Bệnh nhân: Nguyễn Minh B., 42 tuổi, nam. Địa chỉ: Phường Đô Vinh–TP Phan Rang- Tháp Chàm tỉnh Ninh Thuận. Vào viện 8 h ngày 20 tháng 07 năm 2009. Lý do vào viện: Hay bị sặc trong lúc ăn uống. Bệnh sử: Cách ngày nhập viện khoảng 2 năm, bệnh nhân có đi nhổ răng bị sâu 1.7 ở phòng mạch tư. Sau đó về nhà hay bị đau nhức má phải kèm chảy dịch mũi phải có mùi hôi, điều tri nội khoa nhiều đợt bệnh không khỏi hẳn, hay tái phát và đặc biệt mỗi khi bệnh nhân ăn uống là thức ăn và nước hay chảy vào mũi gây sặc rất bất lợi cho sinh hoạt hàng ngày vì vậy bệnh nhân xin nhập viện để được phẫu thuật. Thăm khám hiện tại Toàn thân: Tổng trạng trung bình, không phát hiện gì bất thường. Tại chỗ: Bệnh nhân không đau nhức, mũi khô, thông thoáng. Tại vị trí răng 1.7 đã được lấy bỏ có một lỗ dò đường kính khoảng 8 mm. Dùng que thăm dò thì thấy lỗ dò được thông lên xoang hàm trên cùng bên. Cận lâm sàng: XQ và CT scan cho hình ảnh dày niêm mạc, tụ dịch xoang hàm phải và hình ảnh khuyết xương tại vị trí nền xoang nơi tiếp giáp với răng 1.7 Tường trình phẫu thuật Bệnh nhân được vô cảm tiền mê và gây tê tại chỗ bằng lindocain 2%. Bộc lộ rãnh lợi môi trên, dùng dao rạch niêm mạc một đường ngang khoảng dài 4 cm. Bóc tách niêm mạc đến tận xương, bộc lộ hố nanh sau đó đục mở xoang hàm và lấy hết các mô viêm trong xoang hàm và rửa sạch xoang. Đặt meche dẫn lưu và khâu đóng niêm mạc bằng chỉ cromic 4.0. Sau đó mở khoét rộng đường dò lấy hết các chất nhầy dính và mô viêm làm sạch đường dò. Tiếp theo dùng dao rạch niêm mạc vòm miệng từ sau ra trước ngay cạnh miệng lỗ dò theo hình parapol với kích thước chiều ngang tương ứng với kích thước miệng lỗ dò. Sau đó bóc tách niêm mạc đến tận xương tạo thành một mảnh ghép có cuống. Xoay mảnh ghép này đặt lên miệng lỗ dò giống như một nắp xoay đậy kín miệng lỗ dò, khâu đính mép mảnh ghép với miệng lỗ dò bằng chỉ vicryl 4.0. Sau mổ bệnh nhân được dùng kháng sinh, kháng viêm và giảm đau trong 10 ngày, vệ sinh răng miệng hàng ngày bằng nước muối sinh lý, không được hỉ mũi hoặc hút thuốc lá. Tái khám sau 15 ngày, 1 tháng, 3 tháng thấy vết mổ liền sẹo tốt, lỗ dò được đóng hoàn toàn và không còn viêm xoang hàm tái phát. BÀN LUẬN Dò miệng–xoang được hình thành nguyên nhân chủ yếu là do biến chứng sau nhổ răng hàm trên. Các mối quan hệ giải phẫu liên quan Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 222 mật thiết giữa răng hàm trên với xoang hàm đã lý giải được sự ảnh hưởng của răng hàm trên sau khi được nhổ đi có ảnh hưởng rất lớn đến xoang hàm. Sau khi răng hàm trên kề cận xoang hàm được lấy đi, kết hợp với các yếu tố ngoại cảnh không tốt, vệ sinh răng miệng kém, thuốc kháng sinh uống không đúng liều và thời gianTại vị trí răng nhổ đi, lỗ dò được hình thành, không khí, nước, thức ăn, vi khuẩn từ khoang miệng sẽ đi vào xoang. Lúc đầu sẽ gây tình trạng bệnh lý viêm xoang hàm cấp, sau nhiều lần tái phát và kéo dài sẽ chuyển sang viêm xoang hàm mạn tính. Nếu việc điều trị chỉ tập chung vào điều trị bệnh viêm xoang mà không tiến hành phẫu thuật đóng lỗ dò miệng– xoang lại thì kết quả điều trị sẽ thất bại. Chính vì vậy để kết thúc vòng bệnh lý này, ngoài việc điều trị viêm xoang hàm thì việc phẫu thuật đóng cửa lỗ dò miệng–xoang luôn được ưu tiên và quan tâm hàng đầu. Trong đề tài này, chúng tôi báo cáo dẫn chứng hai trường hợp dò miệng–xoang đều có nguyên nhân do nhổ răng. Chúng tôi tiến hành phẫu thuật xoang hàm tiệt căn, nạo vét lấy hết các mô viêm và kết hợp với phẫu thuật đóng cửa lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng. Như vậy vừa điều trị bệnh lý và vừa giải quyết nguyên nhân. Và kết quả sau điều trị, cả hai trường hợp đều thành công tốt đẹp và không gây biến chứng gì. Trong y văn Việt Nam cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào đề cập đến phương pháp phẫu thuật này một cách có hệ thống. Tìm trong y văn thế giới đã có nhiều đề tài ngiên cứu của nhiều tác giả đưa ra với nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau nhưng đều nhằm mục đích chung là đóng cửa lỗ dò miệng– xoang và chấm dứt tình trạng viêm xoang hàm tái diễn. Năm 1936, Rehrmann lần đầu tiên công bố một phương pháp đóng cửa lỗ dò miệng– xoang bằng một kỹ thuật đơn giản và hiệu quả đó là kỹ thuật nắp miệng. Năm 1975 Killey và Kay báo cáo thành công với kỹ thuật này là 93% trường hợp(1). Tiếp theo lần lượt các kỹ thuật khác ra đời như nắp xoay vòm miệng, nắp mỡ miệng, kỹ thuật ghép xương tự thân như dùng xương cằm để ghép phần xương bi khuyết của lỗ dò hoặc kỹ thuật bánh sandwich như vừa ghép mô cứng (xương) và mô mềm.mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó. Trong đó phương pháp phẫu thuật đóng lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng là một kỹ thuật đơn giản, dễ thực hiện và hiệu quả rất cao. Vào năm 1939, Ashley là người đầu tiên mô tả phương pháp phẫu thuật đóng lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng, sau đó nắp xoay vòm miệng đã được áp dụng rộng rãi và rất thành công và được chứng minh trong các tài liệu y tế thế giới(1,2,11). Do vị trí giải phẫu của nó nên nó có đặc điểm có lợi để sử dụng như một mảnh ghép nhỏ có cuống để tái tạo lại những khuyết tật trong khoang miệng đặc biệt là lỗ dò miệng–xoang do biến chứng sau nhổ răng. Nắp xoay vòm miệng này có ưu điểm là độ dày cao, có một lượng máu cung cấp rất tốt(3,10) .Năm 1980, Ehrl kết luận rằng phương pháp này có thể áp dụng đóng lỗ dò miệng–xoang có đường kính lớn hơn 1cm, đây cũng là một lợi thế của phương pháp này(4). Tuy nhiên phương pháp này cũng có một bất lợi nhỏ là làm cho bệnh nhân đau đớn, rỉ máu sau mổ và tạo sẹo làm mất độ bóng của vòm miệng về sau (1). KẾT LUẬN Dò miệng–xoang phần lớn là biến chứng sau nhổ răng gây nên, nó làm cho khoang miệng va xoang hàm thông thương với nhau từ đó mà không khí, nước, thức ăn, vi khuẩn từ khoang miệng xâm nhập vào xoang hàm trên làm cho tình trạng viêm xoang hàm tái phát nhiều lần, kéo dài và khó điều trị. Việc đóng cửa lỗ dò miệng–xoang để chấm dứt tình trạng viêm xoang và khôi phục lại chức năng sinh lý mũi xoang là nhiệm vụ hàng đầu. Và phương pháp phẫu thuật đóng lỗ dò miệng–xoang bằng kỹ thuật nắp xoay vòm miệng là phương pháp được ưu tiên chọn lựa. Đây là một phương pháp đơn giản, dễ thực hiệ
Tài liệu liên quan