ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH 
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 19 
Lựa chọn giải pháp nâng cao ổn định bờ trụ Nam mỏ than Đèo Nai 
Nguyễn Tô Hoài1, Nguyễn Ngọc Quý2 
1Khoa Mỏ và Công trình, Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh 
2Công ty than Thống Nhất - KTV 
* Email: 
[email protected] 
Tel: +84-0912298997 
 Tóm tắt 
Từ khóa: 
Độ bền; Ổn định bờ Trụ Nam; Dịch 
chuyển; trượt lở 
 Bờ Trụ Nam khu vực Vỉa Chính (V.G.1) mỏ Đèo Nai được thiết kế 
bám Trụ liên tục, góc dốc của bờ bằng góc dốc mặt lớp (α = β). 
Trong những năm vừa qua bờ Trụ Nam liên tục bị trượt lở, quá 
trình trượt xảy ra theo cơ chế trượt phẳng theo tiếp xúc lớp, thể tích 
khối trượt từ (300500) ngàn m3, đã phá vỡ kết cấu của bờ ảnh 
hưởng trực tiếp đến quá trính khai thác xuống sâu. Từ năm 2000 
đến nay mỏ than Đèo Nai phải bốc xúc đất đá xử lý bờ Trụ Nam 
(0,51,0) triệu m3/năm. Vì vậy cần phải lựa chọn giải pháp nâng 
cao độ ổn định bờ mỏ, nhằm đảm bảo ổn định cho bờ mỏ và an 
toàn cho quá trình khai thác đến kết thúc, đảm bảo sản lượng theo 
thiết kế. 
1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT MỎ VÀ CÁC YẾU 
TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỘ ỔN ĐỊNH CỦA 
BỜ TRỤ NAM MỎ THAN ĐÈO NAI 
1.1. Đặc điểm địa chất bờ trụ Nam mỏ than 
Đèo Nai 
1.1.1. Đặc điểm địa chất bờ trụ Nam 
- Bờ Trụ Nam có cấu tạo dạng một đơn 
nghiêng cắm Bắc, cắm vào không gian khai thác 
với góc dốc thay đổi từ (200400). Địa tầng bờ 
Trụ Nam bao gồm toàn bộ các lớp đất đá trụ của 
vỉa G.1 (hình 1): 
Hình 1. Hiện trạng bờ trụ Nam vỉa G.1 
- Đứt gãy F.N là giớí hạn phía Nam của lộ 
vỉa G.1 đới phá huỷ trung bình 20m, cách đứt gãy 
F.K về phía Bắc từ (150200) m là đứt gãy F.k. 
Đứt gãy F.k không có đới phá. Gần đáy của vỉa 
G.1 là đứt gãy F.B, đới phá hủy có chiều rộng 
trung bình 10m. 
- Trong địa tầng bờ Trụ Nam Vỉa Chính (trụ 
vỉa G.1) đến độ sâu 100m có mặt các lớp đá chủ 
yếu sau: Trụ vỉa G.1 là lớp đá bột kết, chiều dày 
lớp thay đổi từ 3 đến 5m, dưới lớp bột kết là các 
lớp cát kết, sạn kết xen kẹp có chiều dày từ 
(520)m, lớp đá này phân bố không liên tục có chỗ 
là cát kết, có chỗ cát kết được thay thế bằng sạn kết. 
Dưới lớp bột kết, cát kết là tầng đá sạn kết với 
chiều dày từ 2050m. 
Bảng 1. Tổng hợp địa tầng bờ Trụ Nam vỉa G.1 mỏ 
than Đèo Nai 
TT 
Tên công 
trình 
Chiều dày lớp, m 
Ghi chú Bột 
kết 
Cát 
kết 
Sạn 
kết 
1 LK.CT-2 30 3 60 Trước năm 2000 
2 LK.CT-3 32 4 40 nt 
3 LK.D-1 18 6 80 nt 
4 LK.D-2 10 10 100 nt 
5 LK.2513 27 6 272 Sau năm 2000 
6 LK.2501 11 15 278 nt 
7 LK.3001 15 8 220 nt 
1.1.2. Đặc điểm địa chất công trình bờ Trụ Nam 
- Bờ Trụ Nam vỉa G.1 từ trên xuống được 
cấu tạo bởi 3 loại đá chính là bột kết, cát kết, sạn 
kết, các loại đá bột kết, cát kết có cấu tạo phân 
lớp từ mỏng đến trung bình. Địa tầng bờ Trụ 
Nam Vỉa G.1 được tổng hợp trong Bảng 2: 
Bảng 2. Phân bố các lớp đá trong bờ trụ Nam vỉ G.1 
TT 
Tên 
lớp 
Loại đá 
Độ sâu 
phân 
bố (m) 
Chiều 
dày trung 
bình (m) 
Ghi chú 
1 Lớp 1 Bột kết 020 10 Số liệu được tổng 
hợp từ các lỗ 
khoan: 2501, 
2513, 3001 
2 Lớp 2 Cát kết 1530 6 
3 Lớp 3 Sạn kết 20300 100 
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH 
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 20 
- Bờ Trụ Nam vỉa G.1 mỏ than Đèo Nai 
cấu tạo bởi các lớp đá cắm vào không gian khai 
thác với góc dốc ( > 200), khi đó biến dạng bờ 
mỏ sẽ xảy ra theo cơ chế trượt phẳng theo các 
mặt yếu tự nhiên (mặt lớp, mặt phân lớp, mặt 
trượt đứt gãy,...). 
- Độ bền của các loại đá ảnh hưởng đến ổn 
định bao gồm: Độ bền theo tiếp xúc lớp (c’, ’) 
độ bền trong mẫu (Cm, m) hệ số giảm bền cấu 
trúc . 
Bảng 3. Tổng hợp tính chất cơ lý của bờ trụ Nam Vỉa G.1 
TT Loại đá 
Độ ẩm tự 
nhiên, 
W % 
K.Lượng 
thể tích tự 
nhiên, T/m3 
Cường độ 
kháng kéo 
k Kg/cm2 
Cường độ 
kháng nén 
n Kg/cm2 
Lực dính 
kết, C 
Kg/cm2 
Góc ma 
sát trong, 
 độ 
Ghi chú 
1 Sét kết 0,172 2,63 60,24 650 50 18,40 Kết quả TN được tổng hợp từ 
báo cáo nghiên cứu tính chất cơ 
lý đã được thực hiện từ năm 
(1970-2013) 
2 Bột kết 0,303 2,67 84,95 816 80 30,30 
3 Cát kết 0,368 2,62 135,32 1126 190 31,37 
4 Sạn kết 0,174 2,63 131,21 1270 210 32,20 
Trong giai đoạn nghiên cứu này chỉ tiến 
hàng thí nghiệm bổ sung 15 mẫu trong đó bao 
gồm 5 mẫu bột kết, 5 mẫu cát kết và 5 mẫu sạn 
kết thuộc bờ trụ Nam Vỉa G.1. Kết quả thí 
nghiệm bổ sung được tổng hợp trong Bảng 4: 
Bảng 4. Tổng hợp kết quả Thí nghiệm bổ sung tính chất cơ lý của bờ Trụ Nam 
TT Loại đá 
Số lượng 
mẫu TN 
Độ ẩm 
tự nhiên 
W (%) 
Khối lượng 
thể tích tự 
nhiên (T/m3) 
Cường độ 
kháng kéo 
k (kG/cm2) 
Cường độ 
kháng nén 
n (kG/cm2) 
Lực dính 
kết C 
(kG/cm2) 
Góc ma 
sát trong 
 (độ) 
Ghi chú 
1 Bột kết 5 0,668 2,67 87,32 750 92,25 31,37 Thí nghiệm 
bằng phương 
pháp chuẩn 
2 Cát kết 5 0,642 2,63 125,34 1212 210,35 32,48 
3 Sạn kết 5 0,574 2,64 141,21 1285 220,0 33,20 
1.1.3. Đặc điểm địa chất thuỷ văn bờ Trụ Nam 
- Trong địa tầng bờ Trụ Nam vỉa G.1 mỏ 
than Đèo Nai có mặt 3 loại đá chính đó là đá bột 
kết, cát kết và sạn kết. 
- Kết quả quan trắc, nghiên cứu địa chất 
thuỷ văn tại bờ Trụ Nam trong nhiều năm qua 
cho thấy trong địa tầng bờ Trụ Nam tồn tại các 
tầng chứa nước trong đá cát kết và sạn kết phân 
bố phía dưới lớp đá cách nước là bột kết. Quá 
trình khai thác xuống sâu cùng với việc bóc đất 
đá xử lý bờ Trụ đã hạ thấp cao trình mực nước 
trong bờ Trụ với tốc độ 0,16m/1m xuống sâu. 
Mức độ hạ thấp cao trình mực nước phụ thuộc 
nhiều vào quá trình bóc lộ các lớp đá chứa nước 
và tốc độ khai thác xuống sâu đáy mỏ. 
Như vậy: Bờ Trụ Nam Vỉa G.1 được cấu tạo 
bởi các lớp đá phân lớp từ trung bình đến dày cắm 
vào không gian khai thác với góc dốc từ 20350. 
Trong địa tầng tồn tại các mặt yếu tự nhiên theo 
tiếp xúc lớp không thuận lợi cho ổn định. 
- Các lớp đá cấu tạo bờ Trụ Nam của mỏ 
có độ bền từ trung bình đến cứng và rất cứng. 
Cường độ kháng nén một trục: n = (7501285) 
kg/cm2; độ bền cắt: C = (92,25220) kg/cm2;  = 
(31,2733,20)0. Đá có độ nứt nẻ trung bình, 
khoảng cách trung bình giữa các khe nứt L = 
(0,550,80)m. 
- Trong địa tầng bờ Trụ Nam có tồn tại các 
tầng chứa nước ngầm với lưu lượng thay đổi từ 
(510) lít/giây. Quá trình khai thác đã làm thay đổi 
động thái và cao trình mực nước trong các tầng 
chứa nước bờ Trụ Nam, Tốc độ hạ thấp mực nước 
theo quá trình đào sâu bằng 0,16m/1m đào sâu. 
Mức độ hạ thấp mực nước trong bờ Trụ Nam phụ 
thuộc không chỉ vào quá trình khai thác xuống sâu 
mà còn phụ thuộc vào mức độ bóc lộ Trụ lớp đá 
bột kết cách nước Trụ trực tiếp vỉa G.1. 
1.2. Hiện trạng độ ổn định của bờ trụ Nam mỏ 
than Đèo Nai 
1.2.1. Biến dạng bờ Trụ Nam 
- Bờ Trụ Nam vỉa chính hiện tại (kết thúc 
năm 2013) đáy mỏ ở mức -130m, chiều cao bờ mỏ 
H = (380410)m, góc dốc chung của bờ  = 
(2025)0. Trong quá trình khai thác những năm 
qua bờ Trụ Nam liên tục bị biến dạng. 
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH 
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 21 
Hình 2. Trượt bờ Trụ Nam khu vực chân bờ 
- Đứt gãy F.k là giới hạn trên cùng của 
khối trượt bờ Trụ Nam, theo bản đồ địa hình kết 
thúc tháng 6/2013, đứt gãy F.k cắt vỉa G1 tại cao 
trình +50m (Điểm F.1), đứt gãy F.k phát triển 
sang phía tây trùng với Trụ vỉa G.1 (Điểm F.2), 
sau đó cắt vào địa hình mặt bằng xưởng sàng ở 
mức +283m (Điểm F.3) kéo dài đến tận điểm F.4 
tại cao trình +275m. Vị trí ranh giới trượt bờ Trụ 
Nam trùng với đứt gãy F.k. 
- Tại khu vực trung tâm của bờ từ mức +70 
đến +260m các khe nứt trượt phát triển theo 
phương gần Đông Tây bao chùm bờ Trụ Nam, 
Các khe nứt kéo dài đến 100m, chiều rộng từ 
12m, sâu 35m (Hình 3): 
Hình 3. Khe nứt trượt phát triển tại khu vực trung tâm 
trên cao trình +240260m 
- Trong phạm vi từ đứt gãy F.K (+260m) đến 
cao trình +200m các khe nứt phát triển dày đặc 
phá huỷ toàn bộ bề mặt địa hình, toàn bộ địa hình 
phía Bắc F.K bị lún thấp từ 35m (Hình 4): 
Hình 4. Sụt lún và nứt nẻ bề mặt khu vực trung tâm từ 
+200260m 
- Trong các năm (2011-2012) khu vực từ 
mức +150m trở xuống đáy mỏ, bờ bị trượt lở 
mạnh theo dạng bóc lớp với chiều dày lớp từ 
(23) m, mặt trượt theo tiếp xúc giữa các phân 
lớp đá bột kết. Đất đá khối trượt bị đẩy xuống 
mặt tầng +72m. Để duy trì đường vận tải Nam 
mức +72m trong năm 2012 và đầu năm 2013 mỏ 
đã phải xử lý khoảng 100 ngàn m3 . 
- Bờ Trụ Nam trong những năm qua từ mức 
+72m xuống đáy, bờ bị trượt hoàn toàn theo mặt 
lớp. Kết quả khảo sát thực tế tại hiện trường từ 
tháng 48 năm 2013 cho thấy: Trên chiều dài theo 
phương Tây Nam - Đông Bắc khoảng 500m hình 
thành các lớp trượt thứ cấp theo mặt phân lớp 
trong đá bột kết và theo tiếp xúc giữa các lớp đá 
bột kết - cát kết; cát kết - sạn kết, sạn kết - bột kết. 
- Khảo sát chi tiết đoạn bờ Trụ từ mức -52 
(Trụ vỉa) đến cao trình +52m (Theo tuyến T.3) 
cho thấy trong đoạn bờ này có: chiều cao H = 
104m,  = 290 hiện tồn tại 3 tầng: 
Tầng 1 từ -52-15: h1=37m; 1=320; 
b1=23m 
Tầng 2 từ -15+29: h2=44m; 2=370; 
b2=32m 
Tầng 3 từ +29+52: h3 = 23m; 3 = 340. 
- Từ đó cho thấy trong đoạn bờ, Trụ vỉa 
các tầng bị chập (23) tầng có góc dốc sườn giảm 
từ 600 xuống (3437)0, chiều cao tầng tăng từ 
15m lên (2744)m. Hiện tại các tầng này chưa ổn 
định, trong thời gian tới còn tiếp tục bị chập, sẽ 
tạo thành 2 tầng với chiều cao h = 50m và góc 
dốc sườn tầng  = (2830)0. 
1.2.2. Quan trắc biến dạng bờ Trụ Nam 
- Tại bờ Trụ Nam trước năm 2000 đã xây 
dựng 3 tuyến quan trắc dịch động, kết quả quan 
trắc trong nhiều năm cho thấy khu vực trung tâm 
của bờ Trụ (đáy mỏ ở mức +0) bị dịch chuyển 
mạnh, tại một số mốc tốc độ dịch chuyển đạt đến 
từ (1,68,7)mm/ngàyđêm. Quá trình biến dạng 
xảy ra tại khu vực Từ +(18080)m. Trong các 
năm từ (20012003) công tác quan trắc vẫn được 
duy trì trên 2 tuyến Cn và En. Kết quả quan trắc 
cho thấy tốc độ dịch chuyển lớn nhất đến 
7,4mm/ngàyđêm tại khu vực +80m, phạm vi biến 
dạng có xu hướng phát triển đến cao trình +230, 
+240m. 
- Từ năm 2005 tốc độ khai thác xuống sâu 
được đẩy mạnh và phát triển sang phía Đông dẫn 
đến phạm vi biến dạng mở rộng, tốc độ dịch 
chuyển gia tăng, phần lớn các mốc quan trắc trên 
các tuyến Cn, En bị mất gần hết, công tác quan 
trắc bị dừng lại cho đến tận năm 2013. 
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH 
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 22 
- Năm 2013 để đánh giá quá trình biến 
dạng bờ Trụ Nam đã tiến hành xây dựng 2 tuyến 
quan trắc tại khu vực trung tâm của bờ Trụ, các 
tuyến quan trắc được đặt vuông góc với bờ Trụ 
và kéo dài từ đỉnh bờ mức + 287m đến gần chân 
bờ mức +68m (Tuyến QT-T1) và + 64,85m 
(Tuyến QT-T2). 
Bảng 5. Kết quả tính toán các thông số dịch chuyển tuyến quan trắc dịch động QT.T2 
TT Tên Mốc 
Các thông số tính toán 
Y2 
mm 
X2 
mm 
H2 
mm 
=(Y2+X2)1/2, 
mm 
B=(2+H2)1/2 
mm 
V=B/T 
mm/nđ 
1 B4 0 0 0 0 0 0 
2 10-4 0 0 0 0 0 0 
3 TN1 0 0 0 0 0.000000 
4 TN2 0,00011 0,00060 0,00000 0,00072 0,026743 0,000347 
5 TN3 0,00017 0,00705 0,00000 0,00721 0,08494 0,001103 
6 TN4 0,00088 0,01071 0,00004 0,01158 0,107621 0,001398 
7 TN5 0,00460 0,01384 0,00004 0,01844 0,135779 0,001763 
8 TN6 0,01260 0,01670 0,00004 0,02930 0,171179 0,002223 
9 TN7 0,02493 0,02012 0,00001 0,04506 0,212266 0,002757 
10 TN8 0,03303 0,01985 0,00003 0,05288 0,229955 0,002986 
11 TN9 0,03795 0,02154 0,00012 0,05950 0,243917 0,003168 
12 TN10 0,06761 0,03016 0,00067 0,09777 0,312682 0,004061 
- Kết quả quan trắc cho thấy khu vực trung 
tâm bờ Trụ Nam dịch chuyển xảy ra đều từ cao 
trình (+281+60)m, tốc độ dịch chuyển V < 0,01 
mm/ngàyđêm. Phạm vi dịch chuyển xảy ra trong 
khu vực từ đứt gãy F.k đến đáy mỏ. 
- Trong thời gian quan trắc (từ tháng 7 đến 
tháng 11) đáy mỏ không xuống sâu, trước đó trong 
Quý 1 năm 2013 mỏ đã tiến hành xử lý bốc xúc 
một phần bờ Trụ trong phạm vi từ cao trình 
(+75+150)m dẫn đến tốc độ dịch chuyển tại khu 
vực này giảm, bờ mỏ ở trạng thái ổn định tạm thời. 
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới độ ổn định của 
bờ trụ Nam mỏ than Đèo Nai 
- Bờ Trụ Nam hiện trạng kết thúc năm 2018 
(đáy mỏ ở cao trình -245m) ở trạng thái ổn định 
giới hạn với hệ số ổn định n = 0,983. Tại khu vực 
từ cao trình (+200+280)m bề mặt địa hình bị nứt 
nẻ mạnh, các khe nứt xuất hiện từ những năm 
trước nay tạm thời không phát triển thêm. Kết quả 
quan trắc dịch động từ tháng 7 đến tháng 11 năm 
2013 trên cao trình (+70+280)m cho giá trị vận 
tốc dịch chuyển V < 0,01mm/ngày đêm. 
- Nguyên nhân trượt lở bở Trụ Nam là do 
góc nghiêng của bờ không phù hợp với cấu tạo 
địa chất và tính chất bền của các loại đá cấu tạo 
bờ mỏ, trong địa tầng bờ Trụ cao trình mực nước 
ngầm được bảo tồn cao; quá trình khai thác đã cắt 
chân lớp. 
- Kết quả tính toán ổn định bờ Trụ Nam 
khai thác đến kết thúc theo thiết kế (kết thúc khai 
trường khu vỉa Chính mức -345m) bám Trụ liên 
tục với chiều cao tầng H > 400m, không đảm bảo 
ổn định cần điều chỉnh góc dốc của bờ Trụ. 
2. LỰA CHỌN GIẢI PHÁP NÂNG CAO ỔN 
ĐỊNH BỜ TRỤ NAM MỎ THAN ĐÈO NAI 
2.1. Các giải pháp nâng cao ổn định bờ mỏ: 
Nguyên nhân gây trượt lở của bờ trụ Nam 
mỏ than Đèo Nai được quyết định bởi các yếu tố 
tự nhiên và công nghiệp như cấu trúc địa tầng, 
tính chất bền, đặc tính chứa nước và tàng trữ 
nước ngầm cũng như lưu thông nước trong địa 
tầng. Các thông số của hệ thống khai thác chiều 
cao bám trụ liên tục vượt quá chiều cao ổn định 
giới hạn cho phép. Quá trình khai thác cắt chân 
lớp, để nâng cao ổn định cho bờ trụ có thể lựa 
chọn áp dụng một số giải pháp chủ yếu sau: 
2.1.1. Gia cường khối đá bằng bê tông phun: 
- Bê tông phun bao gồm các loại cốt liệu 
mịn hoặc thô (cát và đá dăm), xi măng, nước và 
đôi khi cho thêm các chất phụ gia để đông cứng 
nhanh hoặc để cho dễ phun (Lorman, 1968; Poad 
và Serbousek, 1972, Readinh 1973). Loại vật liệu 
phun cùng loại và tiền thân của nó (Gunite) là 
vữa xi măng phun, không chứa các cốt liệu thô và 
được sử dụng hạn chế do giá thành cao và hiệu 
quả có phần còn kém. Loại vật liệu này có thể sử 
dụng trực tiếp cho đá không cần các loại vỏ 
chống khác hoặc có thể phun lên lưới thép, 
bulông đá và khung thép để tạo thành một phần 
của hệ vỏ chống thống nhất. Có thể đưa thêm vào 
các sợi thép để tạo nên bê tông phun cốt thép đan, 
loại vật liệu vỏ chống bền đặc biệt (Kaden, 
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH 
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 23 
1974). 
- Ngoài ra còn một loại áo Chunam (hình 
5) là áo xi măng pooclăng hoặc vữa vôi được trát 
bằng bay. Sử dụng để tăng cường ổn định bờ dốc 
ở Hồng Kông cốt liệu gồm cát granit hạt thô lấy 
từ đá granit phong hoá mảnh vụn tại nơi đã sử 
dụng Chunam. 
Hình 5. Vữa Chunam sử dụng để tăng cường ổn định 
cho đá phong hoá và đất tàn tích (Hồng Kông) 
2.1.2. Gia cường khối đá và các mặt yếu bằng 
giải pháp xi măng hoá sâu: 
Xi măng hoá sâu là bơm phụt dung dịch xi 
măng lấp đầy các lỗ rỗng, khe nứt của đất đá 
dưới áp lực bơm phụt nhất định thông qua các lỗ 
khoan hay giếng đứng nhằm tăng cường độ bền, 
khả năng chịu tải và ngăn chặn dòng ngầm, nâng 
cao độ ổn định cho bờ mỏ, giảm hệ số thấm nước 
của đất đá phân bố sâu trong địa tầng. 
a. Xi măng 
- Dùng xi măng Pocland có thành phần: 
CaO = 6070 %; SiO2 = 1924 %; Al2O3 = 47 
%; Fe2O3 = 26%; MgO = 23% 
Clinke (Xi măng) là hợp chất ở dạng ôxýt: 
3 CaO.SiO2 (C3S) = 4060% (Silicát 3 can xi); 
2 CaO.SiO3 (C2S) = 1535% (Silicát 2 can xi); 
3 CaO.Al2O3 (C3A) = 615% (Alumô can xi); 
4 CaO.Al2O3.Fe2O3 (C4AF) = 1018% (Alumô 
fént can xi). 
- Trong xi măng chất (C3S) giữ vai trò 
chính, nó có tính thuỷ hoá nhanh tạo ra vật chất 
hyđrát có độ bền cao, chất (C2S) hoá cứng chậm 
và độ bền không lớn, chất (C3A) và (C4AF) hoá 
cứng nhanh nhưng có độ bền thấp. 
b. Dung dịch xi măng (Xi măng +H2O): 
Có hai loại dung dịch xi măng đơn giản và 
phức tạp: 
- Dung dịch xi măng là xi măng +H2O; 
- Dung dịch xi măng phức hợp là xi măng 
+H2O + các phụ gia; 
c. Dung dịch Sét - Xi măng: 
Việc trộn sét với dung dịch xi măng căn cứ 
vào các tính chất sau: 
- Mức độ phân tán của sét cao cho phép 
chúng xâm nhập sâu vào các khe nứt và lỗ rỗng 
nhỏ của đất đá cần gia cường. 
- Dùng sét Bentônít ở trạng thái trương nở 
có khả năng hấp thụ nước rất chậm hoặc hoàn 
toàn không hấp thụ nước. Do đó dung dịch sét - 
xi măng không bị nước dưới đất pha loãng khi 
bơm phụt. 
- Dung dịch sét - xi măng có tính xúc biến 
nên chúng dễ dàng bị bơm hút ra bằng các máy 
bơm, đồng thời nó có đới lan truyền xác định. 
Điều này đặc biệt quan trọng khi chúng tồn tại 
trong tầng nước ngầm có diện tích lớn và dòng 
ngầm cao. 
- Sử dụng dung dịch sét - xi măng sẽ ngăn 
cản sự lắng đọng nhanh các hạt cứng của dung 
dịch ximăng đồng thời sẽ tiết kiệm được xi măng. 
- Bơm phụt dung dịch sét - xi măng cho khả 
năng gia cố nền đất đá rất cao và giảm khối 
lượng bơm phụt. 
- Tính không thấm nước của dung dịch sét - 
xi măng cao hơn dung dịch xi măng đơn giản. 
- Dung dịch sét - xi măng ổn định đối với 
tác dụng của nước có tính xâm thực hơn đối với 
dung dịch xi măng đơn giản. 
2.1.3. Giải pháp gia cường mái dốc bằng neo: 
Các neo đang được sử dụng để nâng cao 
ổn định cho các nhiệm vụ sau: 
- Gia cố cho các hố đào sâu; 
- Ổn định mái dốc; 
- Ổn định các hố đào ngầm; 
- Ổn định các kết cấu mới và hiện có; 
- An toàn cho kết cấu chịu tải trọng thẳng 
đứng và di chuyển 
Trong đánh giá ổn định chung, khi sử dụng 
phải tính đến: Sức chịu tải của neo: ví dụ các neo 
có sức chịu tải cao ít ảnh hưởng đến ổn định 
chung hơn các neo có sức chịu tải thấp; Vị trí các 
mặt phẳng phá hoại giới hạn để đảm bảo chiều 
dài bầu neo được đặt trong đá ổn định; Xây dựng 
và quy hoạch vị trí áp dụng neo. 
- Để đánh giá sự ổn định chung người thiết 
kế cần chi tiết những vấn đề: Tải trọng làm việc 
của các neo; Các chiều dài neo tự do tối thiểu; 
Tổng mặt bằng thiết kế các neo. 
- Người thiết kế cũng cần chuẩn bị cho 
phép thay đổi thiết kế do vướng mắc hoặc thay 
đổi các điều kiện vật lý. 
a. Neo trong đá: 
* Các xem xét cơ bản: 
- Việc dùng neo để đảm bảo ổn định của 
mái dốc đá mới hoặc đã có và các hố đào ngầm 
trong đá đã được thiết lập tốt cho hầu hết các loại 
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH 
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 24 
đá. Tuỳ theo hoàn cảnh quy định, các neo có thể 
được dùng làm phương tiện riêng để tạo ổn định 
hoặc chúng sử dụng phối hợp với các dạng gia cố 
khác như bê tông phun, xà thép, kết cấu giữa 
bằng bê tông. 
- Việc chọn neo trong một hoàn cảnh đã 
cho là một công việc cần đến kinh nghiệm và sự 
phán đoán. So sánh với kinh nghiệm đã có, cùng 
với nghiên cứu sơ đồ phân loại và các chỉ dẫn 
thực nghiệm, có thể đưa ra những lời khuyên có 
ích (Hock và Brown 1989; Barton và NNK 1979; 
Farmer và Shelton 1980). 
- Cần phải lựa chọn neo phù hợp với 
những điều kiện cụ thể. 
T XX
Tt
S
ø
c 
ch
Þu
 n
h
æ
ChuyÓn vÞ ®µn håi cña d©y neo
ChuyÓn vÞ d©y neo t¹i ®Çu neo 
Tw < Tx để làm giảm thiểu mất mát căng trước khi 
chịu tải trọng chu kỳ 
Hình 6. Quá trình căng kéo (theo Littlejohn ,1970) 
- Mặc dù loại neo kéo (chủ động) và bám 
dính hoàn toàn không kéo (bị động) đang được sử 
dụng rộng rãi, kiến nghị cần kéo các neo đó càng 
sớm càng tốt sau khi lắp đặt. Lực căng trước 
trong thanh neo cần chọn lớn hơn bất cứ sự tăng 
giảm nào của tải trọng. Theo kiến nghị của 
Littejohn 1970 (hình 6) đầu tiên neo căng đến tải 
trọng yêu cầu (Tt), sau đó neo được chùng hoàn 
toàn. Khi căng lại đến (Tt) cần lưu ý tải trọng bên 
trên (Tx). Đối với (Tt) đã nêu, Tw cần phải dưới 
Tx nhằm giảm thiểu sự mất căng trước cho một 
thanh neo chịu tải trọng chu kỳ khi làm việc. 
- Các neo chịu kéo gia cường khối đá tạo 
ra một mái dốc hoặc bao quanh hố đào bằng cách 
tăng sức kháng cắt dọc theo các chỗ không liên 
tục. Nó gắn chặn sự rời ra của các khối bị lỏng và 
tăng cường bản chất tự liên kết của khối đá. Sự 
tạo ra tác dụng neo ở một vùng được gia cường 
trong khối đá làm nó có độ mềm thích hợp, cho 
phép biến dạng nào đó và tạo