Trong tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường đặc biệt là sau khi Việt Nam tham gia tổ chức thương mại quốc tế WTO 7/11/2006, nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập một cách sâu rộng thì việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng, mục tiêu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nắm vững thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tạo ra những động lực mới, những đột phá mới, từ tư duy đến thực tiễn để sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng chậm phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ở nước ta đã chỉ ra rằng qua 10 năm thành lập và phát triển từ tháng 7/2000, TTCK đã đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, nó vẫn còn rất nhiều yếu tố rủi ro chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp.
63 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Lý do chọn đề tài.
Trong tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường đặc biệt là sau khi Việt Nam tham gia tổ chức thương mại quốc tế WTO 7/11/2006, nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập một cách sâu rộng thì việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng, mục tiêu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nắm vững thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, tạo ra những động lực mới, những đột phá mới, từ tư duy đến thực tiễn để sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng chậm phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ở nước ta đã chỉ ra rằng qua 10 năm thành lập và phát triển từ tháng 7/2000, TTCK đã đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, nó vẫn còn rất nhiều yếu tố rủi ro chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp.
Mục tiêu của đề tài.
Đề tài nhằm tìm hiểu, phân tích và đánh giá một cách có hệ thống TTCK, phân tích các rủi ro gắn liền với các loại chứng khoán, để làm cơ sở lý giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam kết hợp với việc đánh giá thực trạng cơ sở vật chất. Từ đó, đề xuất một số chiến lược phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu qua các phương tiện thông tin như wedsite, tivi…Qua các sách báo, tạp chí kinh tế, chứng khoán,...
Phương pháp xử lý số liệu: Lý luận cơ bản là chủ yếu sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp các biến động của thị trường qua các năm qua đó có thể thấy thực trạng TTCK trong những năm qua, trong hiện tại và những định hướng trong tương lai từ đó, đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu những biến động của TTCK Việt Nam từ đầu năm 2010 đến nay.
Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm:
Lời mở đầu
Phần 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
Phần 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Phần 3: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Kết luận
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Lý luận về thị trường chứng khoán
1.1.1 Khái niệm TTCK
TTCK là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Cũng có định nghĩa cho rằng TTCK là thị trường vốn mua bán các giấy nợ trung, dài hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các loại cổ phiếu.
Các công cụ trên TTCK bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương, các hợp đồng vay thế chấp. Các công cụ trên thị trường vốn thường có thời hạn dài như trái phiếu, cổ phiếu…nên có mức rủi ro cao do đó giá cả của nó dao động mạnh hơn so với các công cụ của thị trường tiền tệ vì vậy phải có cơ chế phát hành và lưu thông chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và thiệt hại cho nền kinh tế.
1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển.
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ sau đó tăng dần rồi hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “ thị trường”. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London (Anh), nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
Thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán, … với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia vào thị trường đó.
Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước.
1.1.3. Phân loại TTCK
Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán, TTCK được chia làm 2 cấp:
- Thị trường sơ cấp (hay thị trường phát hành): Là hoạt động chào bán ra công chúng lần đầu tiên một loại chứng khoán của Chính phủ hay doanh nghiệp, đó chính là việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Trừ trái phiếu chính phủ, tất cả các tổ chức kinh tế muốn phát hành chứng khoán đều phải được phép của Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN ). Thông thường việc phát hành CK ra công chứng được sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính trung gian như công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư,…
- Thị trường thứ cấp hay thị trường lưu hành CK là hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu CK từ nhà đầu tư này sang nhà đầu tư khác. Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần.
- Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Thị trường sơ cấp là tiền đề cho hoạt động của thị trường thứ cấp vì nó tạo ra hàng hóa cho thị trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp. Chính việc mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp đã tạo ra tính thanh khoản cho CK, đó là tính chất dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Các nhà đầu tư nắm giữ các loại CK thường nhắm các cơ hội bán đi CK để kiếm lời, chính tính thanh khoản đã thu hút các nhà đầu tư đến với TTCK.
Căn cứ vào tính chất pháp lý của hình thức tổ chức thị trường chia ra: TTCK
tập trung (SGDCK) hay TTCK không tập trung (thị trường OTC).
- TTCK tập trung: Là địa điểm hoạt động chính thức của các giao dịch chứng khoán gọi là SGDCK. Đó là nơi các nhà môi giới kinh doanh chứng khoán gặp gỡ để đấu giá, thương lượng mua bán chứng khoán cho khách hàng hay cho chính mình theo những nguyên tắc và quy chế giao dịch của SGDCK đề ra trên cơ sở của Luật chứng khoán.
- TTCK không tập trung (thị trường OTC): là hoạt động giao dịch của CK không thông qua SGDCK, mà thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên với phương thức giao dịch thông qua mạng điện thoại và mạng máy tính.
Căn cứ vào phương thức giao dịch của thị trường, chia ra 2 loại thị trường:
- Thị trường giao ngay (Spot market): Là thị trường của những giao dịch CK mà lệnh của khách hàng được thực hiện ngay căn cứ vào giá trị hiện tại và sẽ thanh toán ngay hoăc vào một ngày gần sau đó.
- Thị trường kỳ hạn hay thị trường tương lai (Future market):Là thị trường của các hợp đồng tương lai và các công cụ dẫn xuất từ chứng khoán. Hợp đồng được ký kết căn cứ vào giá cả hiện tại, nhưng giao dịch thanh toán lại diễn ra một ngày ở tương lai trong kỳ hạn.
1.2 Chức năng của TTCK
1.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Vai trò quan trọng đầu tiên của TTCK là thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để hình thành các nguồn vốn lớn có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển kinh tế cũng như tài trợ tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Thực tiễn đã chứng minh TTCK là công cụ huy động vốn hết sức hiệu quả.
1.2.2 Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
TTCK tạo ra cơ hội thuận tiện khuyến khích xã hội tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách có hiệu quả, qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Mỗi cá nhân, tổ chức trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ tạo ra một nguồn vốn lớn cho đầu tư.
Mặt khác, trong xã hội cũng tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung: Ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm,… đều có mục đích khuyến khích tiết kiệm, nhưng các quỹ tiền tệ này cũng chỉ phát huy hết tác dụng của nó khi có một TTCK tồn tại song hành với nó.
1.2.3 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
TTCK cung cấp cho xã hội một môi trường đầu tư lành mạnh với nhiều cơ hội lựa chọn các loại CK trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro cho phép khách hàng có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu, sở thích của mình.
1.2.4 Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chỉ số của TTCK phản ánh sinh động thực trạng của nền kinh tế một cách nhanh chóng và chính xác nhất. Giá CK tăng cho thấy đầu tư đang được mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại giá CK giảm cho thấy những dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Có thể nói TTCK là phong vũ biểu của nền kinh tế, là công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô.
1.2.5 Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán.
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các chứng khoán khác khi họ muốn, đây là yếu tố linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư.
1.2.6 Đánh giá giá trị doanh nghiệp.
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện từ đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.3 Sở giao dịch chứng khoán
1.3.1 Khái niệm.
SGDCK là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức tuân theo những luật định nhất định. SGDCK không tham gia vào việc mua bán chứng khoán, không tham gia vào việc ấn định và can thiệp giá chứng khoán mà là nơi gặp gỡ các nhà môi giới chứng khoán để thương lượng đấu giá, mua bán chứng khoán, là cơ quan phục vụ cho hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán.
1.3.2 Hình thức sở hữu.
SGDCK là một tổ chức có tư cách pháp nhân, được thành lập theo qui định của luật pháp, SGDCK có thể có các hình thức sau:
+ Là một tổ chức vận hành theo nguyên tắc thành viên.
+ Là một tổ chức do chính phủ sở hữu.
1.3.3 Chức năng của SGDCK
+ Tổ chức quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán.
+ Quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán.
+ Cung cấp các dịch vụ liên quan đến mua bán chứng khoán.
1.4 Hàng hóa của thị trường chứng khoán
1.4.1 Cổ phiếu
1.4.1.1 Khái niệm
Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành.
Khi một công ty cổ phần huy động vốn để thành lập hoặc mở rộng, hiện đại hoá sản xuất, họ chia số vốn cần huy động thành những phần nhỏ bằng nhau, gọi là cổ phần, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào công ty bằng cách mua các cổ phần. Khi đó, các nhà đầu tư trở thành cổ đông. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu.
1.4.1.2 Đặc điểm của cổ phiếu
Hình thức cổ phiếu:
Cổ phiếu có thể tồn tại dưới dạng chứng chỉ hoặc dưới dạng tài khoản hay bút toán ghi sổ (các cổ đông nắm giữ giấy báo Có số tiền trên tài khoản của mình). Hình thức thứ hai còn được gọi là chứng khoán phi vật thể hay chứng khoán phi vật chất. Hình thức cổ phiếu do Bộ tài chính phát hành, thống nhất trên toàn quốc. Công ty cổ phần nào niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán thì mẫu cổ phiếu phải do Nhà nước quản lý.
Thời hạn cổ phiếu:
Thời hạn của cổ phiếu gắn chặt với thời hạn hoạt động của công ty cổ phần phát hành ra nó. Về nguyên tắc, cổ đông chỉ được hoàn vốn khi công ty cổ phần chấm dứt hoạt động. Trên thực tế, rất ít khi một công ty đang hoạt động hiệu quả mà lại giải thể. Còn một khi công ty hoạt động kém hiệu quả buộc phải giải thể thì khả năng hoàn vốn cho cổ đông là rất nhỏ. Do đó, cổ phiếu được coi như một loại chứng khoán vĩnh viễn, vô thời hạn. Trên thực tế, vẫn có những loại cổ phiếu được hoàn vốn và điều này do Đại hội đồng cổ đông của công ty quyết định.
Mệnh giá cổ phiếu:
Mệnh giá, hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho cổ phiếu, ghi trên bề mặt cổ phiếu, xác định số tiền tối thiểu mà công ty phát hành phải nhận được trên mỗi cổ phiếu. Mệnh giá chỉ có giá trị vào thời điểm phát hành lần đầu để huy động vốn và không tác động đến giá trị thị trường của cổ phiếu. Ở Việt Nam, mệnh giá của cổ phiếu niêm yết tại SGDCK được quy định thống nhất là 10.000 VND.
1.4.1.3 Phân loại cổ phiếu
+ Phân loại theo quyền lợi cổ đông
+ Phân loại theo thị trường huy động vốn
1.4.2 Trái phiếu
1.4.2.1 Khái niệm
Trái phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc chứng từ ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu.
1.4.2.2 Đặc điểm của trái phiếu
Trái phiếu có mệnh giá:
Mệnh giá trái phiếu có thể do luật định hoặc do tổ chức phát hành quy định. Ở Việt Nam, mệnh giá trái phiếu doanh nghiệp nhà nước và trái phiếu chính phủ sẽ do Nhà nước quy định trên cơ sở đề nghị của Bộ tài chính và quyết định cho từng đợt phát hành trái phiếu.Theo quy định hiện hành là 100.000 VND và các bội số của 100.000 VND.
Trái phiếu có thời hạn:
Thời hạn của trái phiếu là thời hạn đi vay của tổ chức phát hành đối với trái chủ và được ghi rõ trên bề mặt trái phiếu. Trái phiếu có thể được hoàn vốn khi đáo hạn, nhưng cũng có thể được hoàn vốn trước hạn toàn bộ hay từng phần, do đó, thời hạn trung bình (thời gian mà toàn bộ 100% số tiền của trái phiếu được sử dụng) của trái phiếu có thể có thể bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đáo hạn của trái phiếu.
Trái phiếu có quy định lãi suất và thời hạn trả lãi:
Mỗi trái phiếu đều ghi cam kết của tổ chức phát hành thanh toán cho người sở hữu trái phiếu một số tiền lãi cố định vào một ngày nhất định. Số lãi thường được ghi là một tỷ lệ phần trăm của mệnh giá trái phiếu, gọi là lãi suất.
1.4.2.3 Phân loại trái phiếu
Trái phiếu công ty:
Là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau: Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
- Trái phiếu có đảm bảo: Là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
- Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ động. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là:
- Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
- Trái phiếu có thể bán lại: Cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty.
Trái phiếu chính phủ và các cơ quan nhà nước
Trái phiếu chính phủ: Là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Trái phiếu công trình:
Là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành.
1.4.3 Các chứng khoán phái sinh.
Khi thị trường chứng khoán ngày càng phát triển, bên cạnh hai công cụ lưu thông chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu, còn xuất hiện các giao dịch mua bán các chứng từ tài chính có nguồn gốc chứng khoán, bao gồm những loại sau:
Chứng quyền.
Chứng quyền là một chứng thư do công ty phát hành cho các cổ đông hiện hữu, trong đó quy định cổ đông đó được quyền mua một lượng cổ phiếu mới phát hành theo giá quy định thấp hơn giá thị trường trong một thời gian nhất định. Chứng quyền chỉ tồn tại ở dạng chứng thư, không có chứng quyền tài khoản, có thời hạn hiệu lực ngắn và trong thời hạn đó, hiệu lực của nó là không thể huỷ ngang. Trên chứng quyền có ghi rõ số lượng quyền mua cổ phiếu mới và giá mua ưu đãi. Chứng quyền là một loại hàng hoá đặc biệt được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán, giá của nó phụ thuộc giá trị của chứng quyền, thời hạn còn lại của chứng quyền, xu hướng biến động về thị giá của cổ phiếu ấn định trong chứng quyền.
Bảo chứng phiếu
Bảo chứng phiếu là một chứng thư do tổ chức phát hành ra cho tất cả những người mua cổ phiếu và trái phiếu mới của công ty khi có đợt phát hành mới. Người nắm giữ bảo chứng phiếu được quyền mua một lượng cổ phiếu và trái phiếu nhất định theo một giá quy định trong tương lai. Giá đó thường cao hơn giá phát hành. Mục