Luận văn Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì ngân hàng không những phải hứng chịu các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hoạt động ngân hàng thương mại bao gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tựu chung lại, đây là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Như vậy, ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc sử dụng không chỉ bằng vốn tự có, mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay thì ngân hàng thương mại không chỉ bị mất vốn tự có của bản thân mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Vì vậy, tính chất trung gian tài chính đặt ra yêu cầu đầu tiên đối với ngân hàng thương mại là phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay để duy trì khả năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo toàn vốn tự có của bản thân. Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày càng lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế các rủi ro để bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong xu hướng đó, xếp hạng tín dụng là một biện pháp ngày càng được các ngân hàng chú ý sử dụng để đánh giá khách hàng vay vốn. Là một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn của Việt Nam, trong những năm qua, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng mở rộng mạng lưới, cải tiến công nghệ và hoàn thiện các quy trình nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Theo đó, hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng theo chuẩn mực quốc tế đã ra đời, hỗ trợ đắc lực cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động và tình hình thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, công tác xếp hạng tín dụng theo hệ thống xếp hạng tín dụng này của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, em muốn qua đề tài “Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để hoàn thiện hơn nữa công tác xếp hạng tín dụng khách hàng vay vốn tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

doc93 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Sơ đồ Sơ đồ 2.1: Mô hình khái quát chấm điểm đối với các tổ chức kinh tế 47 Sơ đồ 2.2: Xác định quy mô doanh nghiệp 50 Sơ đồ 2.4: Mô hình khái quát chấm điểm đối với các tổ chức tín dụng 59 Bảng biểu Biểu 2.1: Vốn chủ sở hữu qua các năm 2008-2009 35 Biểu 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh 37 Biểu 2.3: Khả năng sinh lời 38 Biểu 2.4: Khả năng thanh khoản 39 Biểu 2.5: Hoạt động dịch vụ 40 Biểu 2.6: Cơ cấu theo dư nợ theo loại hình nghiệp vụ 41 Biểu 2.7: Danh sách các ngành kinh tế 48 Biểu 2.8: Tỷ trọng của chỉ tiêu tài chính và phi tài chính 54 Biểu 2.9: Thang điểm xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 55 Biểu 2.10: Tỷ trọng chỉ tiêu về nhân thân và khả năng trả nợ 58 Biểu 2.11: Thang điểm xếp hạng tín dụng cá nhân 58 Biểu 2.12: Tỷ trọng của chỉ tiêu tài chính và phi tài chính 64 Biểu 2.14: Phân nhóm nợ 69 Biểu 2.8: Kết quả phân loại nợ tại thời điểm 31/12/2008 và 31/12/2009 70 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì ngân hàng không những phải hứng chịu các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hoạt động ngân hàng thương mại bao gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tựu chung lại, đây là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Như vậy, ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc sử dụng không chỉ bằng vốn tự có, mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay thì ngân hàng thương mại không chỉ bị mất vốn tự có của bản thân mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Vì vậy, tính chất trung gian tài chính đặt ra yêu cầu đầu tiên đối với ngân hàng thương mại là phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay để duy trì khả năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo toàn vốn tự có của bản thân. Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày càng lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế các rủi ro để bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong xu hướng đó, xếp hạng tín dụng là một biện pháp ngày càng được các ngân hàng chú ý sử dụng để đánh giá khách hàng vay vốn. Là một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn của Việt Nam, trong những năm qua, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng mở rộng mạng lưới, cải tiến công nghệ và hoàn thiện các quy trình nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Theo đó, hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng theo chuẩn mực quốc tế đã ra đời, hỗ trợ đắc lực cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động và tình hình thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, công tác xếp hạng tín dụng theo hệ thống xếp hạng tín dụng này của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, em muốn qua đề tài “Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để hoàn thiện hơn nữa công tác xếp hạng tín dụng khách hàng vay vốn tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Mục đích nghiên cứu - Đi sâu vào phân tích thực trạng công tác xếp hạng tín dụng khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Qua đó, đánh giá được những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại của ngân hàng. - Đưa ra những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Luận văn sẽ góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại. - Phạm vi nghiên cứu: các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia. Nội dung, bố cục của luận văn Luận văn gồm 03 chương (không bao gồm phần mở đầu và phần kết luận) Chương 1: Tổng quan về xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Bất đã chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể nhận được các khoản vay để thanh toán cho nhu cầu tiêu dùng, thực hiện kế hoạch kinh doanh… Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một địa chỉ hữu ích nếu như chúng ta mong muốn nhận được những lời khuyên về việc đầu tư các khoản tiền tiết kiệm hay về việc lưu giữ và bảo quản các giấy tờ có giá. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng đá cho đến sân bay và đường cao tốc. Hệ thống ngân hàng với hàng ngàn chi nhánh hoạt động trên toàn thế giới có thể tác động đến sự phát triển của tất cả mọi lĩnh vực và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Theo Peter Rose, “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Những chức năng cơ bản của ngân hàng hiện đại ngày nay là: chức năng tiết kiệm, chức năng tín dụng, chức năng thanh toán, chức năng lập kế hoạch đầu tư, chức năng quản lý tiền mặt, chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh, chức năng môi giới, chức năng bảo hiểm, chức năng ủy thác. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm (tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hóa, nguyên, nhiên, vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng giấy tờ lưu kho, bằng các khoản phải thu… hoặc không cần thế chấp. Các ngân hàng thương mại lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng (để khách có thể phát hành các chứng khoản huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả tiền ngay, hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để thuê… Phân loại tín dụng ngân hàng Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại: a. Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: - Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống; - Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm; - Tín dụng dài hạn: trên 5 năm. Thời hạn tín dụng là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng cũng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng (ví dụ xác định hạn mức tín dụng). Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng. b. Phân loại theo hình thức: Tín dụng bao gồm: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. - Chiết khẩu thương phiếu: Đây là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhận của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý, ngân hàng không phải đã cho chủ thương phiếu vay. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng trước tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. - Cho vay: Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. - Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nào đó. - Cho thuê: Cho thuê là việc ngân hàng dùng tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. c. Phân loại theo tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Tín dụng có thể chia thành tín dụng có bảo đảm bằng uy tín của chính khách hàng (hay tín dụng không có tài sản bảo đảm) và tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Tín dụng không có tài sản bảo đảm có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng có quan hệ thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, luôn trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Hoặc đối với các khoản vay theo chỉ định của Chính phủ cũng thường không có tài sản bảo đảm. Tín dụng dựa trên cam kết bảo đảm yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng bảo đảm. Theo đó, ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản bảo đảm (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản bảo đảm. d. Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội bảng và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản bảo đảm có giá trị lớn… Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì… Rủi ro tín dụng a. Rủi ro tín dụng - Rủi ro chính trong hoạt động ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị trường. Người ta khẳng định rằng, hơn mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng phải đối phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng một khách hàng vay hoặc một đối tác không hay không thể thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận dẫn đến việc các khoản vay/ các khoản phải thu của ngân hàng giảm giá trị hoặc không thu hồi được. Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh hưởng lớn đến thu nhập của ngân hàng, đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng hoặc, trong trường hợp xấu nhất, làm cho ngân hàng có nguy cơ phá sản. Trong danh mục tài sản có của ngân hàng, các khoản vay là nơi phát sinh nhiều rủi ro tín dụng nhất. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng có thể còn xuất hiện ở nhiều hoạt động khác của ngân hàng, trong và ngoài bảng tổng kết tài sản. Ngoài danh mục cho vay, ngân hàng ngày càng đối mặt với nhiều rủi ro tín dụng hơn trong các sản phẩm, công cụ tài chính khác như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, các khoản phải thu… Các khoản hoạt động ngoài bảng cân đối kế toán cũng chứa đựng rủi ro tín dụng gồm có: phát hành thư tín dụng (trả ngay hoặc trả chậm), chấp thuận thanh toán, kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, phát hành thư bảo lãnh các loại… Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng. Vì thế, ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm không chỉ ở phạm vi các ngân hàng, mà trong toàn nền kinh tế. Các ngân hàng luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm lợi tức cao nhất có thể ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các mức tín dụng, tài sản bảo đảm và hạn chế tín dụng. Dẫu sao, không một ngân hàng nào có thể lường trước hết được những bất ngờ có thể xảy ra, sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng. b. Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM Từ xưa đến nay, rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trên toàn thế giới. Tín dụng là hoạt động mang tính chất sơ khai, tính bản chất của ngân hàng và là cơ sở chủ yếu để đánh giá chất lượng hoạt động ngân hàng. Hoạt động tín dụng giữ vai trò quan trọng đối với bất kỳ một ngân hàng nào. Nó xứng đáng nhận được sự chú ý đặc biệt trong quản trị ngân hàng cũng như trong công tác giám sát, điều chỉnh hoạt động ngân hàng của ngân hàng trung ương. Việc quản trị tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Trong hầu hết các trường hợp, một danh mục cho vay được quản trị kém là tác nhân chủ yếu gây nên sự thất bại của ngân hàng và do tính chất nhạy cảm đặc biệt của loại hình doanh nghiệp này (ngân hàng), ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính và đôi khi là mở đầu một cuộc khủng hoảng kinh tế. b1. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. Tuy nhiên, tựu chung lại, có thể phân làm 03 nhóm sau: Nhóm nguyên nhân khách quan Nhóm nguyên nhân chủ quan từ phía người đi vay Nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan của ngân hàng Những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng: Đây là những biến cố từ môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, công nghệ tác động đến khả năng trả nợ người đi vay. Những nhân tố như thiên tai, động đất, bão lụt, khủng hoảng kinh tế vĩ mô, hoặc thay đổi chính sách vĩ mô có tác động lớn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay, vượt quá tầm kiểm soát của cả ngân hàng lẫn khách hàng. Những nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay: Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo hoặc kinh doanh mạo hiểm, thiếu thiện chí trả nợ… là những nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Dự báo và nhận diện những rủi ro tiềm ẩn thuộc về chủ quan người vay là một trong những nội dung cốt lõi của phân tích tín dụng mà các ngân hàng thương mại theo đuổi. Các khuôn khổ về phân tích tín dụng được ngân hàng sử dụng khi thẩm định, đánh giá một khoản vay nhằm phát hiện và đánh giá khả năng gây ra tổn thất do những nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay. Tuy nhiên, các ngân hàng cũng không thể luôn luôn đánh giá đúng các rủi ro này. Những nguyên nhân thuộc về chủ quan của ngân hàng: Những nguyên nhân thường thấy là thiếu thông tin về khách hàng vay, năng lực cán bộ chưa cao, bỏ qua hoặc xem nhẹ các nguyên tắc hạn chế rủi ro, thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm sai, không tuân thủ quy trình nghiệp vụ… b2. Quản trị rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng luôn là vấn đề nổi cộm của các ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều phải rút ra các bài học cho mình từ những kinh nghiệm quá khứ. Để quản trị rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường sử dụng một số công cụ sau: - Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng bằng văn bản là yếu tố căn bản, là nền tảng để quản trị tín dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng đặt ra mục tiêu, tham số định hướng cho cán bộ ngân hàng, những người làm công tác cho vay và quản trị danh mục đầu tư. Chính sách được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông suốt từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh. Các tổ chức giám sát hoạt động ngân hàng trên thế giới đều coi một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn là điều kiện thiết yếu để quản trị tốt rủi ro tín dụng. - Giới hạn cấp tín dụng: Để hạn chế rủi ro, mỗi ngân hàng nên quy định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho từng cấp quản trị (mức phán quyết). Mức phán quyết có thể được quy định cho các chi nhánh ngân hàng, các phòng giao dịch, tùy theo quy mô hoạt động, năng lực làm việc của chi nhánh; theo loại sản phẩm tín dụng, tính chất có hay không có tài sản bảo đảm của khoản vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần xác định một mức giới hạn tín dụng đối với từng khách hàng riêng biệt. Nó được hiểu là mức tín dụng an toàn tối đa trong đó doanh nghiệp quản trị hiệu quả được hoạt động của mình và ở mức này, rủi ro ngân hàng có thể chịu đối với doanh nghiệp là thấp nhất. Giới hạn tín dụng được xác định trên cơ sở chính sách tín dụng từng thời kỳ, xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp, ngành nghề và quy mô hoạt động của họ, khả năng cung ứng và quản trị vốn của ngân hàng. - Định giá khoản vay: Định giá khoản vay là một công cụ vô cùng quan trọng trong tiến trình quản trị rủi ro tín dụng khi quyết định cho vay đã được đưa ra. Thông thường, thu nhập mà một khoản vay mang lại cho ngân hàng gồm có: tiền lãi vay và phí. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức bảo đảm bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù rủi ro của khoản vay. Tùy thuộc vào chính sách của mình, ngân hàng sẽ xác định mức lãi suất với phần bù rủi ro hợp lý. - Xếp hạng tín dụng: Các ngân hàng cần định kỳ thực hiện xếp hạng lại tín dụng cho khách hàng (mức độ rủi ro của khách hàng), đánh giá lại món vay và tài sản bảo đảm để từ đó có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh lại giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng cho phù hợp hoặc thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện khoản vay, tài sản bảo đảm có dấu hiệu bất thường ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay. - Tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm là nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay nếu dự án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền của khách hàng không đúng như dự kiến. Tuy nhiên, khoản vay sẽ phải được thanh toán bằng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng phát mại tài sản bảo đảm nên tài sản bảo đảm mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để cho vay. - Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Một công cụ khác luôn được nhắc đến của quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hầng tr
Tài liệu liên quan