Văn học Việt Nam từbuổi sơkhai đến nay đã trải qua nhiều thời
kì. Mỗi thời kì đều đểlại dấu ấn riêng với những tác giảtác phẩm sống mãi
trong lòng bao thếhệ độc giả. Hòa trong công cuộc đổi mới đất nước, văn học
sau 1975 cũng đổi mới tưduy nghệthuật, đặc biệt là nghệthuật tiểu thuyết.
Nếu nhưnền văn học cách mạng của ta trong suốt ba mươi năm(1954-1975)
đã khơi dậy và phát triển cao độý thức cộng đồng dân tộc mà cốt lõi là tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc, và ý thức giai cấp thì sau 1975; khi đất nước
hòa bình, cuộc sống đã trởlại với qui luật bình thường, con người lại trởvề
với muôn mặt của đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề
trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay đã thức tỉnh ý thức cá nhân;
đòi hỏi phải có sựquan tâm đến từng con người, từng sốphận, văn học phải
đáp ứng nhu cầu đó. Do vậy, tiểu thuyết thời kì đổi mới có những chuyển biến
phong phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽcủa tiểu thuyết
giai đoạn trước. Con đường đổi mới này dẫu còn nhiều thửthách, dẫu chưa
thật hoàn thiện nhưng chúng ta thấy cũng đã phần nào định hình.Trên con
đường ấy, có thểnói, Lê Lựu là một trong những tác giả đặt những bước chân
đầu tiên đểlại dấu ấn sau đậm trong lòng người đọc với Thời xa vắng, tiểu
thuyết đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã gây được
tiếng vang, thu hút sựchú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học vềviệc đổi
mới tưduy nghệthuật trong tiểu thuyết. Độc giả đã biết đến Lê Lựu từtrước
“Thời xa vắng” với những truyện ngắn làm rung động lòng người như: Trong
làng nhỏ, Người cầm súng, Chuyện kểtừ đêm trước, Người về đồng cói, Quê
hương người lính và quyển tiểu thuyết đầu tiên: Mởrừng. Nhưng phải đến
Thời xa vắngthì Lê Lựu mới thật sựtrởthành một hiện tượng. Người ta thấy
khắp nơi diễn đàn về“Thời xa vắng”. Anh chàng nhà quê Giang Minh Sài của
nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cảbiên giới, ra
khỏi địa phận nước Việt. Có thểnói Lê Lựu đã thành công vang dội. Sau
thành công ấy, ông vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh thần của ông
lại lần lượt ra đời như: Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội
(1991), Sóng ở đáy sông (1995), Chuyện hai nhà (2000).Tất nhiên, không
phải những tác phẩm của ông đều thành công, đều là những đỉnh cao của văn
học nhưng không thểphủnhận rằng sáng tác của ông đều thểhiện tinh thần
miệt mài lao động, sựnghiêm túc của nhà văn trên con đường tìm tòi, sáng
tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Trong từng tác phẩm ông đã thểhiện sự đổi
mới của mình ởnhiều góc độ. Chính sự đổi mới ấy đã góp phần đem đến cho
văn học những hình tượng mới lạvềngười lính trong chiến tranh, người lính
trong đời thường và những hiện tượng nóng bỏng đang được quan tâm trong
xã hội.
126 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Mỹ Hạnh
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
Chuyên ngành : Lí luận Văn học
Mã số : 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHÙNG QUÍ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Võ Thị Mỹ Hạnh
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT
LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ
tận tình của PGS.TS Phùng Quí Nhâm cùng sự đóng góp ý kiến
của các Giáo sư – Tiến sĩ phản biện, các bạn đồng nghiệp.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quí báu đó.
Dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì khả năng và thời gian
có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của các Giáo sư –
Tiến sĩ và các bạn đồng nghiệp.
Người thực hiện
Võ Thị Mỹ Hạnh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn học Việt Nam từ buổi sơ khai đến nay đã trải qua nhiều thời
kì. Mỗi thời kì đều để lại dấu ấn riêng với những tác giả tác phẩm sống mãi
trong lòng bao thế hệ độc giả. Hòa trong công cuộc đổi mới đất nước, văn học
sau 1975 cũng đổi mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tiểu thuyết.
Nếu như nền văn học cách mạng của ta trong suốt ba mươi năm (1954-1975)
đã khơi dậy và phát triển cao độ ý thức cộng đồng dân tộc mà cốt lõi là tinh
thần yêu nước, tinh thần dân tộc, và ý thức giai cấp thì sau 1975; khi đất nước
hòa bình, cuộc sống đã trở lại với qui luật bình thường, con người lại trở về
với muôn mặt của đời sống thường nhật, phải đối diện với bao nhiêu vấn đề
trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay đã thức tỉnh ý thức cá nhân;
đòi hỏi phải có sự quan tâm đến từng con người, từng số phận, văn học phải
đáp ứng nhu cầu đó. Do vậy, tiểu thuyết thời kì đổi mới có những chuyển biến
phong phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽ của tiểu thuyết
giai đoạn trước. Con đường đổi mới này dẫu còn nhiều thử thách, dẫu chưa
thật hoàn thiện nhưng chúng ta thấy cũng đã phần nào định hình.Trên con
đường ấy, có thể nói, Lê Lựu là một trong những tác giả đặt những bước chân
đầu tiên để lại dấu ấn sau đậm trong lòng người đọc với Thời xa vắng, tiểu
thuyết đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác phẩm đã gây được
tiếng vang, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu văn học về việc đổi
mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết. Độc giả đã biết đến Lê Lựu từ trước
“Thời xa vắng” với những truyện ngắn làm rung động lòng người như: Trong
làng nhỏ, Người cầm súng, Chuyện kể từ đêm trước, Người về đồng cói, Quê
hương người lính… và quyển tiểu thuyết đầu tiên: Mở rừng. Nhưng phải đến
Thời xa vắng thì Lê Lựu mới thật sự trở thành một hiện tượng. Người ta thấy
khắp nơi diễn đàn về “Thời xa vắng”. Anh chàng nhà quê Giang Minh Sài của
nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cả biên giới, ra
khỏi địa phận nước Việt. Có thể nói Lê Lựu đã thành công vang dội. Sau
thành công ấy, ông vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh thần của ông
lại lần lượt ra đời như : Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội
(1991), Sóng ở đáy sông (1995), Chuyện hai nhà (2000). Tất nhiên, không
phải những tác phẩm của ông đều thành công, đều là những đỉnh cao của văn
học nhưng không thể phủ nhận rằng sáng tác của ông đều thể hiện tinh thần
miệt mài lao động, sự nghiêm túc của nhà văn trên con đường tìm tòi, sáng
tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Trong từng tác phẩm ông đã thể hiện sự đổi
mới của mình ở nhiều góc độ. Chính sự đổi mới ấy đã góp phần đem đến cho
văn học những hình tượng mới lạ về người lính trong chiến tranh, người lính
trong đời thường và những hiện tượng nóng bỏng đang được quan tâm trong
xã hội.
Trong quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc, Lê Lựu đã khẳng định
mình ở nhiều thể loại như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn… Thành
quả nghệ thuật của ông được khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải
nhì hội thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 1967-1968 (không có giải nhất) với
truyện ngắn Ngươi cầm súng, giải A cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà
văn, Bộ thương binh với truyện Người về đồng cói. Đặc biệt với giải thưởng
của Hội nhà văn dành cho Thời xa vắng, đã có hàng loạt bài phát biểu về tiểu
thuyết của ông. Có thể nói Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương
đương đại được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự
thành công cho Lê Lựu? Có rất nhiều yếu tố, trong đó theo tôi không thể
không kể đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là nghệ
thuật trần thuật của ông. Tuy nhiên, ở góc độ thi pháp thì chưa có công trình
nghiên cứu một cách hệ thống tác phẩm của ông mà chỉ khai thác ở vài khía
cạnh trong các bài viết tản mác.
Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu không phải tất cả đều là đỉnh cao, là
kiệt tác nhưng nó có sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì
khó mà dứt ra được hay nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những truyện xoàng xoàng,
người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một đoạn
tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật” [51,tr.80]. Lê Lựu có một
vị trí khá quan trọng trong thời kì đổi mới văn học, tác phẩm của ông xứng
đáng được nghiên cứu riêng biệt trong một công trình. Vì vậy, trong luận văn
này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức về Lí luận văn học và văn học
thời kì đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập để tìm hiểu,
sắp xếp, hệ thống các vấn đề có liên quan đến nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết của Lê Lựu mong chỉ ra được một số nét nổi bật trong phong cách trần
thuật của nhà văn nhằm góp phần vào việc nghiên cứu tác phẩm của ông một
cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Hy vọng rằng,với luận văn này, chúng tôi có
thể đóng góp một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu chung về Lê Lựu để
thấy được đóng góp của nhà văn đối với văn học dân tộc trong quá trình đổi
mới tiểu thuyết cũng như góp phần nhìn nhận vị trí của nhà văn trong văn học
đương đại.
2. Giới hạn đề tài:
Lê Lựu có vị trí khá vững chắc trong lòng bạn đọc bởi qúa trình
sáng tác tương đối dày với hàng loạt tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau
trong nhiều giai đoạn khác nhau, ở những chủ đề khác nhau. Nhưng do hạn
chế về mặt thời gian cũng như khả năng nghiên cứu nên người viết chỉ tập
trung khảo sát các tiểu thuyết:
- Mở rừng (1975)
- Ranh giới (1979)
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá không biết đùa (1989)
- Chuyện làng Cuội (1991)
- Sóng ở đáy sông (1995)
- Hai nhà (2000)
3. Lịch sử vấn đề:
3.1 Phần mở đầu:
Cái tên Lê Lựu đã không còn xa lạ với độc giả. Ông là nhà văn sáng
tác ở nhiều thể loại và khá thành công. Là nhà văn mang đặc chất quê nhưng
kì thực vốn sống của ông vô cùng phong phú với kho tàng là sự trải đời lọc
lõi. Ông thuộc lớp nhà văn quân đội, ra đời và trưởng thành trong thời kì
chống Mĩ cứu nước. Người đọc biết đến tên Lê Lựu với tác phẩm trình làng
Tết làng mụa (1964). Sau đó là các truyện ngắn: Người cầm súng, Phía mặt
trời, Chuyện kể từ đêm trước… và đến Người về đồng cói thì ông đã thật sự
tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Đây cũng là tác phẩm đoạt giải trong cuộc
thi viết về thương binh của Hội nhà văn và Bộ thương binh. Hơi hướng tiểu
thuyết đã xuất hiện trong những truyện ngắn của ông như dự báo một thành
công xa hơn nữa và mọi người vẫn khắc khoải mong chờ một tiếng vang, một
bước nhảy xa hơn nữa ở Lê Lựu. Không phụ lòng độc giả, quyển tiểu thuyết
đầu tiên của ông ra đời, đó là Mở rừng (1975). Đây là quyển tiểu thuyết đề tài
chiến tranh có thể nói là khá thành công. Tác giả xây dựng hình ảnh một cuộc
chiến oai hùng nhưng cũng không kém phần bi thảm của các chiến sĩ Trường
Sơn. Tác phẩm đã phần nào tạo được dấu ấn riêng, mới mẻ. Trong thời điểm
bấy giờ, Mở rừng ra đời thể hiện một cách nhìn nhận hiện thực có phần
mạnh dạn của nhà văn so với xu thế thời đại là sự náo nức của lòng người
trước chiến thắng vang dội 1975. Tuy nhiên để có được Lê Lựu trong lòng
người đọc lúc bấy giờ và cho đến mai sau thì phải nói đến Thời xa vắng. Nó là
đứa con ngoan của nhà văn. Đứa con này đã đem đến nét mới mẻ thật sự đã
được nhen nhuốm từ Mở rừng. Cái Thời xa vắng rất gần ấy đã làm xôn xao dư
luận. Ở đâu cũng nghe thời xa vắng, ở đâu cũng thấy Giang Minh Sài, thậm
chí Lê Lựu còn được gọi là cu Sài!
Lê Lựu thuộc kiểu nhà văn viết bền. Sau thành công của Thời xa vắng
ông không dừng lại, tự mãn mà vẫn đi tiếp con đường mình đã mở dù cho khá
chông gai, chông gai như bước chân của những chiến sĩ mở đường Trường
Sơn. Họ vẫn đi vì ngày mai tươi sáng. Lê Lựu cũng có niền tin ấy, lòng dũng
cảm ấy, ông cũng là người lính mà! Ông bền chí ơ công việc thay đổi cách
viết tiểu thuyết của mình. Vì vậy, Đại tá không biết đùa, Chuyện làng Cuội,
Sóng ở đáy sông, Hai nhà tiếp tục ra đời. Tất nhiên không phải tất cả đều
thành công nhưng mỗi tác phẩm đều có một nét riêng đáng cho ta quan tâm.
Cho đến nay, trong mấy mươi năm sáng tác, Lê Lựu đã có một khối lượng tác
phẩm đáng trân trọng.
3.2 Những ý kiến xung quanh nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết Lê Lựu:
Tiểu thuyết Lê Lựu gắn liền với quá trình đổi mới tiểu thuyết của văn
học Việt Nam. Nó đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẽ về một
phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn quân đội Lê Lựu. Tùy vào cảm
hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã
đề cập tới một số khía cạnh nổi bật về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
của ông với mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau. Một trong những nét nổi
trội trong lối tự sự của Lê Lựu được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập tới
là lối hành văn tự nhiên của ông và sự cách tân, tìm tòi cái mới trong cách
thức trần thuật. Trong từng tác phẩm khác nhau, ở nhiều góc độ khác các nhà
nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng Lê Lựu luôn có cách tân trong trần
thuật, luôn làm mới tiểu thuyết của mình. Ông không bao giờ bằng lòng với
lối mòn cũ. Ở mỗi tiểu thuyết của ông người đọc đều có thể nhìn thấy sự cách
tân của nhà văn đặc biệt là sự đổi mới hình tượng người trần thuật, kết cấu lời
văn trần thuật. Nói như Ngô Thảo: “Hầu như anh không vừa lòng với bất cứ
bề mặt phẳng phiu, một kết cấu quen thuộc nào. Anh dẫn người đọc đi từ xa
tới gần từ gần lại bật ra xa, đang chuyện hôm nay bỗng quay bật về qúa khứ,
đang từ tuyến trước sang chuyện tuyến sau, từ phía trong ra phía ngoài, từ nội
tâm trực tiếp qua lời người kể của người khác…” [102,tr. 215]. Văn của ông
không phải là kiểu văn dễ dãi quen thuộc, đọc qua một lần là có thể hiểu hết
các tầng ý nghĩa. Với mỗi lần tiếp xúc tác phẩm là một lần người đọc tìm
thêm một vấn đề nào đó. Những vấn đề đó được nhà văn giấu kín trong lời
văn của mình mà nói như Trần Đăng Khoa thì đó là “thứ văn không nhạt”,
ông nhận xét : “Lê Lựu biết cuốn hút người đời bằng một thứ văn không nhạt.
Ngay cả những truyện xoàng xoàng người đọc vẫn thu lượm được một cái gì
đấy , có khi là một chi tiết, một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách
nhân vật.” [51, tr.80]. Cùng suy nghĩ với Trần Đăng Khoa, Đinh Quang Tốn
cũng cho rằng văn của “anh chàng nhà quê” có một sức hút vô hình bằng lời
văn mang phong cách riêng: “Văn anh không rành rẽ, không mạch lạc nhưng
có chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhiều khi cả đoạn cả trang cứ thùng thình
mà người đọc vẫn thấy thích, không ai chê vì người ta biết đấy là văn tự
nhiên của riêng anh, chứ không phải anh làm văn mà chê anh về văn phạm”
[93, tr.17]. Chính chất văn tự nhiên ấy đã đem đến cho chúng ta những trang
viết đặc sắc về những cảnh sinh hoạt của nông thôn miền Bắc; về hình ảnh
người lính trong chiến tranh, người lính trong thời bình. Nhìn nhận tiểu thuyết
thuyết Lê Lựu ở góc độ trần thuật, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại chú ý
đến câu văn, ông đặc biệt hứng thú với kiểu đặt câu của Lê Lựu, thừa nhận sự
thành công trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết không dừng lại ở lời văn
mạch lạc. Cũng như Đinh Quang Tốn, ông cho rằng Lê Lựu có văn phong
riêng : “Trong Thời xa vắng câu văn lùa thùa có khi mềm và rối như bún
nhưng lại rất được. Câu văn Lê Lựu là một sự thách đố với cách đặt câu quá
mạch lạc, gẫy gọn do sự thấm nhuần ngữ pháp của một ngôn ngữ phương Tây
tạo ra“ [35, tr.119]. Cũng nhận xét về nghệ thuật trần thuật, La Khắc Hòa
quan tâm đến người trần thuật : “Người trần thuật kể lại câu chuyện về cuộc
đời Giang Minh Sài không phải là để người đọc có dịp được suy ngẫm, mà là
để nó được nói thật to những điều hình như nó đã ngẫm nghĩ xong xuôi. Cho
nên chỗ nào nó cũng lắm lời, lời kể của nó đã lùa thùa, dài dòng mà cái luận
đề thì lộ rất rõ. Đã thế tác phẩm lại cố gò để kết thúc có hậu {…}. Nguyên tắc
trần thuật sử thi cũng để lại dấu ấn ở mối quan hệ giữa người kể chuyện và
người đọc trong Thời xa vắng. Nhưng đặt bên cạnh những tác phẩm cùng
thời, tiểu thuyết của Lê Lựu đúng là bước ngoặt của tiếng trình đổi mới văn
xuôi nghệ thuật” {95, tr.66}. Ngô Thảo cũng thừa nhận sự tìm tòi sáng tạo lời
văn trần thuật của Lê Lựu là một công việc cần được khích lệ: “Cũng sẽ buồn
cười và lố bịch nữa khi khuyên Lê Lựu chọn cách viết chân mộc cổ điển. Chỉ
có thể nghĩ là anh hiểu biết đầy đủ đối tượng khi điều anh muốn nói là tâm
đắc, sáng tỏ thì anh sẽ có được cách thể hiện thích hợp, dù hoa mỹ bay bướm
một chút hay mộc mạc thật thà cũng không quan trọng gì” {102, tr.217}.
Nhận xét về kiểu kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu, Trần Đăng Khoa
cũng chú ý tới kiểu kết cấu truyện lồng trong truyện trong tiểu thuyết Mở
rừng. Ông cho rằng: “Đấy là cuốn tiểu thuyết viết trực tiếp về chiến tranh với
cái nhìn không đơn giản và ở thời điểm đó, đã có thể coi là mạnh dạn. Lê Lựu
đề cập đến số phận của một lớp ngươì trong chiến tranh. Oai hùng và bi
thảm. Giản đơn và phức tạp. Mỗi người là một cách rừng âm u rậm rịt, phải tự
mở lấy lối mà đi. Chẳng ai giống ai, bằng những con đường riêng, những số
phận riêng, họ đã đến với cuộc chiến tranh bi tráng“{51,tr.83}. Nhiều nhà
nghiên cứu thống nhất ý kiến rằng Thời xa vắng là câu chuyện về cuộc đời
Giang Minh Sài nhưng mở ra rất nhiều vấn đề, tạo nên tính nhiều tầng bậc
cho câu chuyện. Người đọc có thể tìm thấy ở đó từ những vấn đề lớn lao đến
những vấn đề vụn vặt trong đời sống. Nguyễn Bích Thu viết : “Có lẽ to
chuyện qúa chăng? Nhưng Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hôn
phối đó, sự xen cài vào nhau đó: chiến tranh rồi hòa bình, nông thôn ra thành
phố, “nhà quê” và “kẻ chợ”… Không phải người viết đưa hai mảng ngẫu
nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau, mà gắn nối cài xen với nhau như là
sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử” [96].
Một đặc điểm nổi bật khác cũng được chú ý trong tiểu thuyết Lê Lựu
là chất giọng giễu nhại. Các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận sự thành công của
nhà văn khi sử dụng chất giọng trầm tĩnh và chất giọng giễu nhại để phản ánh
hiện thực. Nhận xét về một trong những yếu tố đem đến thành công cho Lê
Lựu trong Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng : “Cách nhìn
thấu đáo của anh, tấm lòng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn,
một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan
không thêm bớt tô vẻ, đặc biệt không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp
phần đáng kể vào sức thuyết phục hấp dẫn của tác phẩm” [65]. La Khắc Hòa
thì cho rằng: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo.
Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như phóng đại hay
vật hóa hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản thuật lại
những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được một hình tượng giễu
nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bông đùa, lúc lại xót xa,
chì chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nó”. {96, tr.66-
67}. Cũng đề cập tới giọng trần thuật, Đỗ Tất Thắng nhận xét về thái độ của
nhà văn trong Thời xa vắng: “Lê Lựu phê phán một thời đã qua, mổ xẻ nó
nhưng không hề oán trách, không cay nghiệt, không nổi khùng. Anh phê phán
những dư luận, hoàn cảnh làng xã những năm sáu mươi đã tạo nên tính cách
Giang Minh Sài, đã làm khổ cuộc đời Sài mấy chục năm trời, nhưng anh
không hề bôi bác, chê bai những người nông dân. Trong Thời xa vắng anh đã
viết những trang nồng ấm tình người về người nông dân chân lắm tay bùn,
một nắng hai sương. Ngòi bút Lê Lựu viết về nông thôn thật là nhân hậu”
{102}.
Nhìn nhận đóng góp của Lê Lựu về mảng tiểu thuyết lẫn truyện ngắn,
Đinh Quang Tốn cho là “Lê Lựu viết đều cả truyện ngắn và tiểu thuyết và cả
hai thể loại anh đều thành công, nhưng thành công hơn vẫn là tiểu thuyết. Đê
tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có nhiều
người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn cả. Hình ảnh anh nông
dân mặc áo lính trở thành viên chức ở thành thị cũng có nhuững nhà văn đề
cập đến, nhưng Lê Lựu đã thành công hơn. Có lẽ đó là hai thành công tiêu
biểu nhất của Lê Lựu” [93, tr.22].
Tiểu thuyết của Lê Lựu còn được nhìn nhận ở những góc độ khác
Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu
và khẳng định tính tích cực trong việc đề cập đến hạnh phúc con người: “Tiểu
thuyết đã không ngần ngại miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực
rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả những con người tự nhiên, khai thác yếu tố
tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học
( {…} Hai nhà của Lê Lựu)” [96, tr.231]. Nguyễn Trường Lịch khẳng định
thành công của Lê Lựu trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai thác những
xung đột của trái tim con người: “ Có thể khẳng định nét đổi mới ở Thời xa
vắng là tác giả không hướng ngòi bút mình mô tả các sự kiện lịch sử xã hội
bên ngoài theo thời gian tự sự chốn chiến trường máu lửa như một số tác
phẩm cùng thời và cả trước đó mà đi sâu khai thác những xung đột đầy kịch
tính của trái tim con người trong bối cảnh giã từ chiến tranh về hậu phương
thời hòa bình”.
Từ những bài nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu đã mở ra cho người
viết hứng thú tìm hiểu vấn đề này. Học tập, kế thừa những bài viết có liên
quan đến sáng tác của Lê Lựu, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật
trần thuật trong tiểu thuyết của ông và phát triển nó thành bài nghiên cứu khoa
học trong luận văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1 Phương pháp hệ thống:
Một trong những phương pháp bao trùm mà thi pháp học rất quan tâm là
phương pháp hệ thống. Vì vậy trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu này. Khi áp dụng phương pháp này vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật
trong tiểu thuyết Lê Lựu yêu cầu phải đặt từng yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết của ông vào hệ thống nghệ thuật trần thuật nói chung, trong tiến trình
chung của văn học dân tộc; phân tích những mối quan hệ giữa các yếu tố với nhau
đồng thời đặt nó vào trong giai đoạn đổi mới văn học và trên tiến tình phát triển của
thể loại tự sự của văn học dân tộc.
4.2 Phương pháp phân tích :
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi có sử dụng một số
dẫn chứng để minh họa cho lập luận của mình. Do đó, phương pháp phân tích
được vận dụng để trình bày cặn kẽ vấn đề hoặc bình giá các vấn đề cụ thể
trong luận văn.
4.3 Phương pháp thống kê:
Trong chừng mực nhất định của quá trình nghiên cứu, chúng tôi
sử dụng phương pháp thống kê xem trong mỗi yếu tố nghệ thuật tầng số xuất
hiện của những hiện tượng nào là cao, hiện tượng nào là thấp và nó có báo
hiệu điều gì không.
5. Đóng góp của luận văn:
Khi nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật, vấn đđề đđược người nghiên cứu
quan tâm nhiều chính là nghệ thuật trần thuật. Đó chính là một trong các yếu
tố đđem đđến sự thành công cho nhà văn trong quá trình