Địa danh phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội, là chứng tích vềdân tộc,
lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trịcủa cộng đồng. Nó đểlại một dấu ấn có giá
trịtheo thời gian. Đặc biệt ởlĩnh vực ngôn ngữ, địa danh là nguồn tài nguyên vô tận
giúp ta khám phá những tâm tư, tình cảm, tưduy của người xưa gửi gắmtrong lời
ăn tiếng nói hằng ngày và cảngôn ngữvăn chương trau chuốt của chữHán, chữ
Nôm.
Chúng ta biết rằng địa danh được cấu tạo từchất liệu ngôn ngữ, chịu sựchi
phối và tác động của ngôn ngữ. Nghiên cứu địa danh là góp phần làm phong phú
cho nội dung ngôn ngữ, phát triển cho ngành địa danh học Việt Nam hiện nay vốn
hãy còn non trẻ.
Địa danh được cấu tạo và chịu sựchi phối của qui luật ngữâm, ngược lại nó là
nguồn tài liệu quí giá cho ngành ngữâm học. Đối với ngành ngữpháp học, địa danh
cũng góp phần làm sáng rõ vềmặt phương thức cấu tạo từ, ngữ. Và hiển nhiên làm
phong phú kho tàng từvựng tiếng Việt không không thểkhông kể đến vai trò của
việc nghiên cứu địa danh.
Hơn nữa khi nghiên cứu địa danh là góp phần củng cốtính thống nhất của
ngôn ngữdân tộc đồng thời ngôn ngữ địa phương cũng phát huy được sựphong phú
vào ngôn ngữthống nhất. Địa danh phản ánh đời sống của một vùng đất, ngôn ngữ
của một vùng, nghiên cứu địa danh là nghiên cứu ngôn ngữ địa phương của vùng
đất đó. Nhưvậy địa danh còn là nguồn tài liệu cần thiết cho ngành phương ngữhọc.
Trong cuộc sống, con người cần phải giao tiếp với nhau, mọi vật cần có tên để
gọi và địa danh là một minh chứng, ẩn chứa nhiều điều của cuộc sống qua tên gọi
đó.
247 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 6322 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu địa danh ở tỉnh Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--- ---
NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ TRUNG HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
Lời cảm ơn
Đề tài này thực hiện được sự hướng dẫn, chỉ bảo, động viên, cung cấp
nhiều tài liệu quý giá của PGS.TS Lê Trung Hoa và sự góp ý của các Giáo sư -
tiến sĩ phản biện và các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành cám ơn các
thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ chân tình và quý báu đó.
Qua công tác điền dã, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị,
các Sở, Phòng công thương, Sở - Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở -
Phòng tài nguyên môi trường, Sở - phòng thống kê, thư viện tỉnh - huyện, Sở -
Phòng văn hóa thông tin của tỉnh Bến Tre đã cung cấp những tài liệu quý cho
chúng tôi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng chúng tôi cũng không quên gửi lời cám ơn đến Phòng khoa học
công nghệ và sau Đại học, khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm TPHCM đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực hết sức đa dạng, phong phú và cũng rất
khó khăn. Vì vậy trong một thời gian ngắn, chúng tôi không thể nào giải quyết hết
các vấn đề mà địa danh phản ánh, cùng với kiến thức của người viết có giới hạn
cho nên ít nhiều cũng mắc phải những sai sót. Người viết rất mong được sự chỉ
dẫn, đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
TP.HCM, ngày15 tháng 7 năm 2009
Người thực hiện
Nguyễn Thị Kim Phượng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG TIỂN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những tiền đề lý luận .................................................................................19
1.1.1. Định nghĩa địa danh ............................................................................19
1.1.2. Phân loại địa danh...............................................................................22
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học và vị trí của địa danh học
trong ngôn ngữ học ...........................................................................................30
1.1.4. Vấn đề viết hoa địa danh.....................................................................34
1.2. Cơ sở thực tiễn ...........................................................................................37
1.2.1. Về địa lý ..............................................................................................37
1.2.2. Về lịch sử ............................................................................................39
1.2.3. Về dân cư ............................................................................................46
1.3. Tiểu kết.......................................................................................................47
Chương 2: PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH, ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO
VÀ NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH
2.1. Các phương thức đặt địa danh....................................................................49
2.1.1. Khái quát về phương thức đặt địa danh ..............................................49
2.1.2. Các phương thức đặt địa danh ở Bến Tre ...........................................52
2.1.2.1 . Phương thức tự tạo .........................................................................52
2.1.2.2. Phương thức chuyển hóa..................................................................62
2.2. Đặc điểm về mặt cấu tạo ............................................................................68
2.2.1. Phân loại địa danh ở Bến Tre..............................................................68
2.2.2. Mô hình cấu trúc của địa danh............................................................71
2.2.3. Vấn đề thành tố chung trong địa danh ở Bến Tre ..............................72
2.2.4. Đặc điểm về mặt cấu tạo của địa danh ở Bến Tre ..............................84
2.2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn...................................................................84
2.2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức .................................................................85
2.3. Nguyên nhân biến đổi của địa danh ...........................................................88
2.3.1. Vài nét về đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ, ngữ âm của
tiếng Bến Tre.....................................................................................................88
2.3.2. Nguyên nhân chuyển biến...................................................................91
2.3.2.1. Nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ ...................................................93
2.3.2.2. Nguyên nhân ngôn ngữ ....................................................................96
2.4. Tiểu kết.....................................................................................................101
Chương 3: GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC, ĐẶC DIỂM VỀ NGUỒN
GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH
3.1. Phản ánh hiện thực ...................................................................................103
3.1.1. Địa danh phản ánh về mặt địa lý tự nhiên ........................................104
3.1.2. Địa danh phản ánh về mặt lịch sử .....................................................105
3.1.3. Địa danh phản ánh về mặt kinh tế xã hội..........................................109
3.1.4. Địa danh phản ánh về mặt văn hóa ...................................................110
3.1.5. Địa danh phản ánh về mặt ngôn ngữ và văn học ..............................117
3.2. Nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở Bến Tre ...................................124
3.2.1. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng .......................................126
3.2.2. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa còn tranh luận............................133
3.3. Tiểu kết.....................................................................................................145
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Cách viết tắt các phường, thị trấn, huyện, thị xã, tỉnh
P : phường
TT : thị trấn
(TX) : thị xã
(BaT) : huyện Ba Tri
(BĐ) : huyện Bình Đại
(CL) : huyện Chợ Lách
(CT) : huyện Châu Thành
(GT) : huyện Giồng Trôm
(MC) : huyện Mỏ Cày
(TP) : huyện Thạnh Phú
(BTre) : tỉnh Bến Tre
Nxb : nhà xuất bản
2. Các kí hiệu
: biến đổi thành
: tương đương nhau
[x, y,z] : tên tác giả, năm, số trang
Phiên âm âm vị học : / /
Phiên âm ngữ âm học : [ ]
Phụ âm đầu của âm tiết . Ví dụ : l-
Phụ âm cuối của âm tiết. Ví dụ : -p
Nguyên âm của âm tiết. Ví dụ : -ô-
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt khoa học
Địa danh phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội, là chứng tích về dân tộc,
lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trị của cộng đồng. Nó để lại một dấu ấn có giá
trị theo thời gian. Đặc biệt ở lĩnh vực ngôn ngữ, địa danh là nguồn tài nguyên vô tận
giúp ta khám phá những tâm tư, tình cảm, tư duy của người xưa gửi gắm trong lời
ăn tiếng nói hằng ngày và cả ngôn ngữ văn chương trau chuốt của chữ Hán, chữ
Nôm.
Chúng ta biết rằng địa danh được cấu tạo từ chất liệu ngôn ngữ, chịu sự chi
phối và tác động của ngôn ngữ. Nghiên cứu địa danh là góp phần làm phong phú
cho nội dung ngôn ngữ, phát triển cho ngành địa danh học Việt Nam hiện nay vốn
hãy còn non trẻ.
Địa danh được cấu tạo và chịu sự chi phối của qui luật ngữ âm, ngược lại nó là
nguồn tài liệu quí giá cho ngành ngữ âm học. Đối với ngành ngữ pháp học, địa danh
cũng góp phần làm sáng rõ về mặt phương thức cấu tạo từ, ngữ. Và hiển nhiên làm
phong phú kho tàng từ vựng tiếng Việt không không thể không kể đến vai trò của
việc nghiên cứu địa danh.
Hơn nữa khi nghiên cứu địa danh là góp phần củng cố tính thống nhất của
ngôn ngữ dân tộc đồng thời ngôn ngữ địa phương cũng phát huy được sự phong phú
vào ngôn ngữ thống nhất. Địa danh phản ánh đời sống của một vùng đất, ngôn ngữ
của một vùng, nghiên cứu địa danh là nghiên cứu ngôn ngữ địa phương của vùng
đất đó. Như vậy địa danh còn là nguồn tài liệu cần thiết cho ngành phương ngữ học.
Trong cuộc sống, con người cần phải giao tiếp với nhau, mọi vật cần có tên để
gọi và địa danh là một minh chứng, ẩn chứa nhiều điều của cuộc sống qua tên gọi
đó.
1.2. Về mặt thực tiễn
Có đôi lúc chúng ta tự hỏi rằng tại sao có tên Sài Gòn, Cần Thơ, Cà Mau hay
Bến Tre…, nó có nguồn gốc và ý nghĩa như thế nào, hoàn cảnh phát sinh và phát
2
triển ra sao? Để giải đáp về điều này chỉ có vai trò của địa danh học mới có thể làm
sáng rõ.
Việt Nam do ảnh hưởng của chiến tranh, là một vùng đất tiếp xúc, pha trộn
nhiều nền văn hóa cho nên ít nhiều gì cũng dễ dẫn đến sự “đồng hóa”, nhưng chính
nhờ có những tên gọi nảy sinh từ một vùng đất được lưu giữ và lưu truyền đã góp
phần gìn giữ và phát huy được bản sắc dân tộc, giúp con người gần gũi với quê
hương mình và thêm yêu quê hương hơn, ra sức phát triển, làm giàu thêm quê
hương.
Bên cạnh đó việc đồng hóa một ngôn ngữ đối với một dân tộc hơn ngàn năm
Bắc thuộc, trăm năm giặc Tây là điều dễ xảy ra nhưng với một Việt Nam anh hùng
thì việc gìn giữ tiếng nói của dân tộc, phát triển ngôn ngữ ngày càng phong phú là
một vai trò cần thiết của địa danh. Địa danh Nôm được lưu giữ, truyền bá cho đến
ngày nay, ngôn ngữ thuần Việt gắn với những tên gọi đa dạng của địa danh, thấy
được cách ứng xử linh hoạt của dân tộc trong suốt bề dày lịch sử.
Là một nhà mô phạm, nghiên cứu địa danh giúp cho chúng tôi giáo dục học
sinh về sự tìm tòi, khám phá về một vùng đất tươi đẹp, trù phú nơi các em sinh
sống, thấy được những ước mơ về cuộc sống yên bình, sung túc, giàu có của người
xưa hay những chiến tích oai hùng còn lưu danh, văn hóa của một thời kì, sự thay
đổi của một vùng đất…
Bến Tre là một tỉnh nhỏ của đồng bằng sông Cửu Long nhưng được biết đến
với những chiến tích oai hùng, kiêu dũng, người dân nơi đây có một bề dày đấu
tranh kiên cường, bất khuất với nhiều danh nhân lịch sử: Võ Trường Toản, Phan
Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn
Thị Định…cùng với các phong trào nổi dậy của quần chúng như Khởi nghĩa Nam
Kì, phong trào Đồng Khởi. Nhắc đến Bến Tre là nghĩ đến phong trào Đồng Khởi,
có thể xem, đây là phong trào đòn bẩy, làm cơ sở cho sự nỗi dậy của các phong trào
khác trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ ở Nam Kì.
Được mệnh danh là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, trải qua bao đời Bến Tre
vẫn còn lưu giữ nguyên các giá trị của nó. Mặc dù lịch sử hình thành vùng đất chỉ
3
khoảng hơn 300 trăm, song địa danh ở đây được kết tinh bởi nhiều vùng văn hóa
của các dân tộc khác nhau trong buổi đầu khai phá như Chăm, Khơme, Hoa…, “địa
danh ở đây không phải là đơn giản”[ Nguyễn Văn Âu, 2000, tr 142]. Có thể nói Bến
Tre là một vùng đất đầy tiềm năng và hấp dẫn, là mãnh đất màu mỡ cho các ngành
khoa học nghiên cứu trong đó có địa danh.
Vận dụng những lí thuyết về ngôn ngữ học, kết hợp với kiến thức về lịch sử,
địa lý, văn hóa, dân tộc cũng như công tác thực tế chúng tôi muốn khắc họa toàn
cảnh về bức tranh địa danh ở Bến Tre không nằm ngoài những mục đích nêu trên và
lòng tự hào về vùng đất Đồng Khởi anh hùng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống địa danh ở Bến Tre, là toàn bộ
các địa danh chỉ đối tượng tự nhiên như địa hình, sông, rạch…tên gọi các đối tượng
nhân tạo như địa danh chỉ các công trình xây dựng thuộc về không gian hai chiều
như tên đường sá, cầu cống, kênh… tên gọi các địa danh hành chính như tên ấp,
xã…và các địa danh chỉ vùng.
Trên cơ sở kế thừa những người nghiên cứu trước, người làm luận văn cũng
muốn góp phần hệ thống hóa các phương pháp nghiên cứu của đối tượng địa danh ở
Bến Tre nói riêng và đối tượng của địa danh học ở Việt Nam nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Bước đầu nghiên cứu địa danh ở góc độ ngôn ngữ, qua thu thập tài liệu, chúng
tôi điều tra thực tế mục đích là để làm sáng rõ về phương thức cấu tạo địa danh,
nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình biến đổi địa danh ở Bến Tre góp phần làm phong
phú ngành địa danh học Việt Nam.
Công trình hệ thống lại những khái niệm về địa danh, quá trình phân bố địa
danh, phân loại địa danh, đối tượng nghiên cứu trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát
triển.
Chúng tôi góp phần gìn giữ về lịch sử tiếng Việt, bảo tồn phương ngữ của một
vùng đất.Qua đó, chúng ta còn thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa địa danh với các
4
phân ngành như từ vựng học, ngữ âm học và ngữ pháp học cũng như mối quan hệ
giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như: địa lý học, lịch sử học, văn hóa
học, dân tộc học…
Chúng tôi bổ sung, hệ thống lại, làm sáng rõ nguồn gốc, ý nghĩa những địa
danh ở Bến Tre vốn còn bị thờ ơ, mờ nhạt.
3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu địa danh không nằm ngoài những mục đích nêu
trên trên cơ sở mang tính chất lí luận và tính thực tiễn của việc nghiên cứu.
4. Lịch sử nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Địa danh Việt Nam thật sự hình thành và phát triển chỉ vài chục năm trở lại
đây. Nói như vậy, không có nghĩa là dân tộc ta không quan tâm đến nguồn gốc, sự
hình thành và phát triển cũng như quá trình biến đổi của địa danh. Ở giai đoạn trước
đó nó chỉ được đề cập trong các tản văn, sách biên khảo địa phương chí, chủ yếu
nhìn nhận địa danh ở góc độ lịch sử, địa lý.
Trong An Nam chí lược của tác giả Lê Tắc (1333), một Việt gian ở đời Trần có
ghi chép về danh sách những khu vực hành chánh, những núi sông lớn và những cổ
tích danh tiếng của thời đại nhà Trần trở lên. Lê Qúi Đôn với Phủ biên tạp lục gồm
6 quyển (1776), cũng có bàn đến một số địa danh thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị,
địa lí, lịch sử, văn hóa ở miền Nam nước ta
Thời nhà Nguyễn, đời Gia Long có bộ sách Nhất thống dư địa chí của Lê
Quang Định gồm 10 quyển đã ghi chép hệ thống giao thông đường bộ ở nước ta từ
kinh đô Phú Xuân đến Gia Định, và từ kinh đô đến Lạng Sơn, còn đường thủy được
ghi chép từ Gia Định đến Vĩnh Trấn (Vĩnh Long). Tác giả giới thiệu một cách tổng
quan về đường đi nước bước theo chiều dài đất nước.
Sau Lê Quang Định, có tác giả Trịnh Hoài Đức với Gia Định thành thông chí
(có thể hoàn thành trong đời Gia Long, 1802-1820), sách gồm sáu quyển: Tinh dã
chí, Sơn xuyên chí, Cương vực chí, Phong tục, Sản vật, Thành trì. Sách này đã phản
ánh đầy đủ về đất Gia Định thuộc vùng đất Nam Bộ, là bộ sách quý thể hiện ở
5
nhiều phương diện như diên cách địa lý, thành trì, khí hậu và các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, đặc biệt là giới thiệu nguồn gốc và lí giải một số địa danh.
Ở đời Minh Mệnh (1820-1840), Phan Huy Chú cho ra đời Lịch triều hiến
chương loại chí bộ sách gồm 49 quyển, trong đó 5 quyển bàn về sự khác nhau về
phong thổ, cương vực qua các đời của các trấn từ Bắc vào Nam và được đánh giá là
“ một bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống ở Việt Nam” [Nguyễn Tấn Anh, tr.5].
Đặng Xuân Bảng sống ở đời Tự Đức (1847-1883) biên soạn cuốn Sử học bị
khảo trong đó có phần bàn về Tiên triều địa danh diên cách có giải thích về sự thay
đổi một số địa danh, phân loại địa danh. Đại Nam nhất thống chí (1882) gồm nhiều
quyển, mỗi quyển chép về một tỉnh gồm các nội dung: phương vị, phân dã, kiên trì
diên cách, phủ huyện, hình thể, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu, hộ khẩu,
điền phú, sơn xuyên, quan tấn, dịch trạm, thị lập, từ miên,tự quán, nhân vật, thổ
sản. Đây được xem là bộ địa chí phản ánh đầy đủ nhất các mặt của đời sống dân tộc
Việt Nam, trong đó bộ sách có giải thích về nguồn gốc, ý nghĩa và cách thức biến
chuyển của địa danh.
Đời Đồng Khánh (1885-1889), có bộ Đồng Khánh địa dư chí lược (1886) đã
ghi chép đầy đủ danh sách các phủ, huyện, tổng, xã. Cùng thời điểm này còn có
cuốn Đại nam quốc cương giới vựng biên cả Hoàng Hữu Xứng gồm bảy quyển,ở
sau sách có bản đồ chỉ toàn bộ địa vực nước Việt Nam. Có thể nói đây là những tài
liệu quí giá cho việc tìm hiểu vị trí, sự thay đổi các địa danh lịch sử.
Đến thời thuộc Pháp người ta có bàn về địa danh nhưng chủ yếu phục vụ cho
mục đích truyền đạo của các giáo sĩ và công cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Cuối thế kỉ XIX các địa danh được ghi chép lại chủ yếu là địa danh hành chính,
phục vụ cho chính trị xã hội đó là tập Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX (thuộc
các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra). Đầu thế kỉ XX giáo sĩ L. Cadiêre có nghiên cứu địa lý
lịch sử tỉnh Quảng Bình Géographie historique du Quảng Bình d’après les annales
imperials (địa lý học lịch sử tỉnh Quảng Bình theo Quốc triều thực lục). Những năm
mười của thế kỉ XX nhà Hán học H.Maspéro nghiên cứu về địa lý học lịch sử nước
ta ở nhiều đời khác nhau gồm các tập Le Protectorat général de L’Annam sous les
6
Tang (An Nam đô hộ phủ ở đời Đường); La géographie politique de L’Annam sous
les Lý, les Trần ei les Hồ (địa lí học chính trị ở các triều Lý, Trần, Hồ). Đến năm
1928, tác giả Ngô Vĩ Liễn có biên soạn cuốn Tự vựng làng xã ở Bắc Kỳ cũng đã góp
phần củng cố, bổ sung vốn địa danh hành chính lúc bấy giờ. Đến khoảng năm 1936
Cl. Madrolle có bài Le Tonkin anciens (xứ Bắc Kỳ xưa) đã nghiên cứu về vị trí các
quận Giao Chỉ thời Hán thuộc.
Khi địa danh học thế giới có sự biến chuyển đáng kể từ giai đoạn hình thành
sang giai đoạn phát triển thì địa danh học Việt Nam mới dần hình thành vào giữa
thế kỉ XX. Ở giai đoạn này, do ảnh hưởng sự phát triển của địa danh học thế giới
như Ý, Pháp, Nga…địa danh học Việt Nam có sự khởi sắc. Từ những năm 1960
trong bài Đất Việt trời Nam và Sông núi miền Nam (địa danh học và phong tục học),
tác giả Thái Văn Kiểm đã chỉ ra được đặc điểm, nguồn gốc, ý nghĩa và cách phân
loại của một số địa danh dưới góc độ lịch sử văn hóa. Năm 1964, Đào Duy Anh cho
ra đời tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời. Tác giả đã dùng phương pháp lịch
sử địa lý nghiên cứu về địa lý hành chính để xác định cương vực, vị trí và sự thay
đổi các khu vực hành chính cũng như sự mở rộng lãnh thổ ở các đời khác nhau,
trong đó địa danh được chú ý nhiều. Cùng năm này, có một nữ tác giả tên Hoàng
Thị Châu đã có bước đột phá trong lĩnh vực nghiên cứu địa danh ở góc độ ngôn ngữ
học qua việc tìm hiểu địa danh sông với sản phẩm Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở
Đông Nam Á qua một vài tên sông [1964]. Năm 1976, Trần Thanh Tâm trong bài
viết Thử bàn về địa danh học Việt Nam đã nêu lên được những vấn đề cơ bản cho
địa danh học Việt Nam. Tuy nhiên cách phân loại địa danh còn dài dòng lại chưa
phản ánh đầy đủ nội dung của địa danh.
Vận dụng những kiến thức về địa danh học, năm 1984, tác giả Đinh Văn Nhật
đã có Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ
đại Việt Nam bài viết phần nào cho thấy được sự kết hợp giữa địa danh với các
chuyên ngành khác.
Năm 1993, Nguyễn Văn Âu xuất bản cuốn Địa danh Việt Nam và năm 2000
tái bản dưới nhan đề Một số vấn đề về địa danh Việt Nam. Hai cuốn sách đã phản
7
ánh được về đối tượng, về nguyên tắc đặt tên, về cách phân loại, phân vùng và sự
biến đổi của địa danh. Tuy nhiên, tác giả vẫn còn vận dụng cách lí giải địa danh
dưới góc địa lý học lịch sử.
Nguyễn Quang Ân đã biên soạn công phu, nghiêm túc cuốn sách Việt Nam-
những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-1997, góp phần giúp chúng ta
tra cứu về địa danh, địa giới hành chính trong lịch sử và những biến đổi của nó.
Ngành địa danh học Việt Nam ngày càng tạo được sự hứng thú cho các nhà
nghiên cứu cày xới, tìm tòi, phát hiện. Nếu như trước đó địa danh học đa phần đượ