Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiến trình hội nhập quốc tế
của đất nƣớc đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và
phẩm chất đạo đức tốt. Để đáp ứng nhu cầu đó nghành giáo dục cần đổi mới
toàn diện. Do vậy với văn kiện đại hội đảng lần thứ X của ban chấp hành
trung ƣơng đảng khoá IX đã khẳng định ''.ưu tiên hàng đầu cho việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Đổi mới trương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học. Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh.’’
Điều 28 luật giáo dục qui định ''phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học cho học sinh".
Thực hiện yêu cầu trên, ngành giáo dục nƣớc ta có chủ trƣơng đổi mới
nội dung, chƣơng trình sách giáo khoa. Với nội dung chƣơng trình sách giáo
khoa mới thì việc đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh là thật sự cần thiết.
Vật lí học là một môn học bắt buộc trong hệ thống các môn học của nhà
trƣờng phổ thông ở nƣớc ta hiện nay. Yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học
trong nhà trƣờng phổ thông trong đó yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học
đối với môn vật lí là điều tất yếu. Do đặc thù của vật lí học là môn khoa học
thực nghiệm nên một trong những khâu quan trọng của quá trình đổi mới
phƣơng pháp dạy học vật lý là tăng cƣờng các hoạt động thực nghiệm của học
sinh trong quá trình học tập. Vì vậy, việc đƣa thí nghiệm vào dạy học đã làm
cho học sinh tiếp cận với con đƣờng nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
và tiếp thu các kiến thức một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Thông qua thí
nghiệm vật lý, học sinh sẽ đƣợc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, giáo dục tổng hợp,
hình thành tƣ duy sáng tạo và tinh thần làm việc tập thể. Thông qua việc tiến
hành thí nghiệm, học sinh đƣợc làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa
học, có một số kĩ năng sử dụng các máy móc thiết bị cơ bản làm cơ sở cho việc
sử dụng những công cụ trong công việc cũng nhƣ trong cuộc sống.
Qua điều tra thực tế, chúng tôi thấy: Việc dạy và học theo chƣơng trình
mới đã có nhiều ƣu điểm. Tuy nhiên, dạy học nội khoá vẫn còn rất nặng nề,
chƣa kích thích đƣợc sự hứng thú học tập và chƣa phát triển đƣợc năng lực
sáng tạo của học sinh. Do vậy, để đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra của nền giáo
dục, cần phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức hoạt động học tập của học
sinh, và cần phải khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động ngoài giờ lên
lớp (hay hoạt động ngoại khoá). Đây là một hình thức dạy học mang lại hiệu
quả cao nhƣng hiện nay chƣa đƣợc chú trọng ở các trƣờng phổ thông nƣớc ta.
Nó không những giúp học sinh củng cố các kiến thức đã học ở nội khoá mà
còn giúp đào sâu, mở rộng kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh. Đây là những điều mà nội khoá làm chƣa tốt do điều kiện thời gian,
phƣơng tiện dạy học hay do sức ép thi cử.
Qua quá trình nghiên cứu sách giáo khoa vật lí 11, chúng tôi nhận thấy
kiến thức về dòng điện không đổi có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ
thuật. Trong dạy học nội khóa đã đƣợc trang bị một số thiết bị thí nghiệm tố i
thiểu về dòng điện không đổi, nhƣng qua điều tra chúng tôi nhận thấy các
giáo viên chƣa khai thác, tận dụng đƣợc hết khả năng của các thiết bị thí
nghiệm này trong dạy học. Có giáo viên sử dụng các thiết bị này trong dạy
học nhƣng chƣa nghiên cứu để đƣa thí nghiệm vào giảng dạy theo hƣớng tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Ngoài ra, phần này cũng có những thí
nghiệm đơn giản, có thể tự chế tạo đƣợc hoặc khai thác từ những thiết bị đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
có sẵn trong thực tế nhƣng giáo viên đã không tổ chức cho học sinh tự thiết kế
và làm thí nghiệm. Do vậy, trong học nội khóa, học sinh không có cơ hội
đƣợc rèn luyện các kĩ năng, các thao tác làm thí nghiệm, cũng nhƣ không
đƣợc hình thành kiến thức một cách đúng đắn dễ dẫn đến sai lầm, hay không
có sự hứng thú, tích cực trong học tập và không đƣợc rèn luyện tƣ duy sáng tạo.
Thực tiễn trong những năm gần đây ở các nhà trƣờng phổ thông hiện
nay, hoạt động ngoại khoá nói chung và hoạt động ngoại khoá vật lí nói riêng
ít đƣợc tổ chức, lãnh đạo nhà trƣờng và giáo viên bộ mô n chƣa có sự đầu tƣ
cho hoạt động này. Về mặt lí luận, việc nghiên cứu các hình thức tổ chức hoạt
động ngoại khoá vật lí trong nhà trƣờng phổ thông cũng chƣa đƣợc sự quan
tâm nghiên cứu thích đáng của các nhà lí luận dạy học bộ môn.
Với mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu, nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả dạy và học vật lí ở trƣờng trung học phổ thông (THPT), chúng tôi
chọn nghiên cứu đề tài: NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ
VỀ "DÕNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI" VẬT LÍ LỚP 11 (THPT) NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH.
114 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1836 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện không đổi" vật lí lớp 11 (thpt) nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiến trình hội nhập quốc tế
của đất nƣớc đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và
phẩm chất đạo đức tốt. Để đáp ứng nhu cầu đó nghành giáo dục cần đổi mới
toàn diện. Do vậy với văn kiện đại hội đảng lần thứ X của ban chấp hành
trung ƣơng đảng khoá IX đã khẳng định ''...ưu tiên hàng đầu cho việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Đổi mới trương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học... Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh...’’
Điều 28 luật giáo dục qui định ''phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học cho học sinh".
Thực hiện yêu cầu trên, ngành giáo dục nƣớc ta có chủ trƣơng đổi mới
nội dung, chƣơng trình sách giáo khoa. Với nội dung chƣơng trình sách giáo
khoa mới thì việc đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh là thật sự cần thiết.
Vật lí học là một môn học bắt buộc trong hệ thống các môn học của nhà
trƣờng phổ thông ở nƣớc ta hiện nay. Yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học
trong nhà trƣờng phổ thông trong đó yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học
đối với môn vật lí là điều tất yếu. Do đặc thù của vật lí học là môn khoa học
thực nghiệm nên một trong những khâu quan trọng của quá trình đổi mới
phƣơng pháp dạy học vật lý là tăng cƣờng các hoạt động thực nghiệm của học
sinh trong quá trình học tập. Vì vậy, việc đƣa thí nghiệm vào dạy học đã làm
cho học sinh tiếp cận với con đƣờng nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
và tiếp thu các kiến thức một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Thông qua thí
nghiệm vật lý, học sinh sẽ đƣợc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, giáo dục tổng hợp,
hình thành tƣ duy sáng tạo và tinh thần làm việc tập thể. Thông qua việc tiến
hành thí nghiệm, học sinh đƣợc làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa
học, có một số kĩ năng sử dụng các máy móc thiết bị cơ bản làm cơ sở cho việc
sử dụng những công cụ trong công việc cũng nhƣ trong cuộc sống.
Qua điều tra thực tế, chúng tôi thấy: Việc dạy và học theo chƣơng trình
mới đã có nhiều ƣu điểm. Tuy nhiên, dạy học nội khoá vẫn còn rất nặng nề,
chƣa kích thích đƣợc sự hứng thú học tập và chƣa phát triển đƣợc năng lực
sáng tạo của học sinh. Do vậy, để đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra của nền giáo
dục, cần phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức hoạt động học tập của học
sinh, và cần phải khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động ngoài giờ lên
lớp (hay hoạt động ngoại khoá). Đây là một hình thức dạy học mang lại hiệu
quả cao nhƣng hiện nay chƣa đƣợc chú trọng ở các trƣờng phổ thông nƣớc ta.
Nó không những giúp học sinh củng cố các kiến thức đã học ở nội khoá mà
còn giúp đào sâu, mở rộng kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh. Đây là những điều mà nội khoá làm chƣa tốt do điều kiện thời gian,
phƣơng tiện dạy học hay do sức ép thi cử.
Qua quá trình nghiên cứu sách giáo khoa vật lí 11, chúng tôi nhận thấy
kiến thức về dòng điện không đổi có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ
thuật. Trong dạy học nội khóa đã đƣợc trang bị một số thiết bị thí nghiệm tối
thiểu về dòng điện không đổi, nhƣng qua điều tra chúng tôi nhận thấy các
giáo viên chƣa khai thác, tận dụng đƣợc hết khả năng của các thiết bị thí
nghiệm này trong dạy học. Có giáo viên sử dụng các thiết bị này trong dạy
học nhƣng chƣa nghiên cứu để đƣa thí nghiệm vào giảng dạy theo hƣớng tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Ngoài ra, phần này cũng có những thí
nghiệm đơn giản, có thể tự chế tạo đƣợc hoặc khai thác từ những thiết bị đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
có sẵn trong thực tế nhƣng giáo viên đã không tổ chức cho học sinh tự thiết kế
và làm thí nghiệm. Do vậy, trong học nội khóa, học sinh không có cơ hội
đƣợc rèn luyện các kĩ năng, các thao tác làm thí nghiệm, cũng nhƣ không
đƣợc hình thành kiến thức một cách đúng đắn dễ dẫn đến sai lầm, hay không
có sự hứng thú, tích cực trong học tập và không đƣợc rèn luyện tƣ duy sáng tạo.
Thực tiễn trong những năm gần đây ở các nhà trƣờng phổ thông hiện
nay, hoạt động ngoại khoá nói chung và hoạt động ngoại khoá vật lí nói riêng
ít đƣợc tổ chức, lãnh đạo nhà trƣờng và giáo viên bộ môn chƣa có sự đầu tƣ
cho hoạt động này. Về mặt lí luận, việc nghiên cứu các hình thức tổ chức hoạt
động ngoại khoá vật lí trong nhà trƣờng phổ thông cũng chƣa đƣợc sự quan
tâm nghiên cứu thích đáng của các nhà lí luận dạy học bộ môn.
Với mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu, nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả dạy và học vật lí ở trƣờng trung học phổ thông (THPT), chúng tôi
chọn nghiên cứu đề tài: NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ
VỀ "DÕNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI" VẬT LÍ LỚP 11 (THPT) NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện không đổi"
vật lý lớp 11(THPT) nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo của học sinh.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Tổ chức dạy học ngoại khoá một số chủ đề về "Dòng điện không đổi''
đối với học sinh lớp 11 THPT, nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng
lực sáng tạo của họ c sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu nghiên cứu và tổ chức đƣợc một số chủ đề hoạt động ngoại khoá
vật lí về ''Dòng điện không đổi'' sẽ góp phần nâng cao tính tích cực và phát
triển năng lực sáng tạo của học sinh.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lí luận về tính tích cực, năng lực sáng tạo.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức dạy học ngoại khoá.
- Vận dụng kiến thức vào việc tổ chức một số hoạt động ngoại khoá về
dòng điện không đổi cho học sinh lớp 11 THPT.
- Khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp việc tổ chức dạy học ngoại
khoá bộ môn vật lý tại một số trƣờng THPT thuộc địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Soạn thảo tiến trình dạy học ngoại khoá cho một số đơn vị kiến thức về
dong điện không đổi trong chƣơng trình vật lý 11.
- Tổ chức thực hiện, tổng kết và rút ra một số kết luận cần thiết.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu và tổ chức hoạt động ngoại khoá khi dạy một số kiến thức
về dòng điện không đổi trong chƣơng trình vật lý 11 (THPT), nhằm phát huy
tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh.
7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lí luận phục vụ đề tài: nghiên cứu các tài liệu về tâm
lí học, giáo dục học, lý luận dạy học vật lý, các tài liệu về tổ chức hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Nghiên cứu thực tế dạy học ngoại khoá vật lí tại một số trƣờng THPT.
- Tổ chức thực nghiệm sƣ phạm: thực hiện dạy học ngoại khoá một số
nội dung đã chọn và đánh giá mức độ hoàn thành của luận văn so với mục
đích nghiên cứu của đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận của hoạt động ngoại khoá vật lí tại
các trƣờng THPT.
- Đề xuất đƣợc một số nội dung và hình thức dạy học ngoại khoá vật lí.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổ chức hoạt động ngoại khoá
vật lí.
9. CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN
Luận văn dự kiến đƣợc trình bày gồm 5 phần: Ngoài phần mở đầu, phần
kết luận chung, phần tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm có 3 chƣơng:
Chương1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện khồng đổi" cho
học sinh lớp 11 THPT nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo cho học sinh
Chương 3: Thực nghiệm sƣ phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu
Hoạt động ngoại khoá là một hình thức dạy học có thể giúp học sinh có
kết quả cao hơn trong học tập và góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em.
Chính vì vậy mà hoạt động ngoại khoá đã đƣợc chú trọng nghiên cứu và thực
hiện ở nhiều nƣớc trên thế giới. Thậm chí nền giáo dục của nhiều nƣớc còn
chủ trƣơng giảm thời lƣợng các giờ lên lớp và tăng cƣờng các hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp và hoạt đông ngoại khoá. Công trình nghiên cứu gần
đây của các nhà giáo dục Mĩ cho thấy: Những học sinh thƣờng xuyên tham
gia vào các chƣơng trình hoạt động ngoài giờ lên lớp có chất lƣợng thƣờng
đạt đƣợc thành tích học tập cao hơn, có hành vi đạo đức tốt hơn, có mối quan
hệ và cảm xúc tốt hơn...
Các hình thức hoạt động ngoại khoá của các trƣờng phổ thông của các
nƣớc trên thế giới thƣờng tập trung chủ yếu vào các hoạt động nhƣ: trò chơi
trí tuệ; câu lạc bộ nhạc, kịch, hội hoạ, thể thao; dã ngoại thực tế…
Ở nƣớc ta, từ những năm 1960 khi xây dựng chƣơng trình giáo dục, Bộ giáo
dục đã xác định rõ: ''Muốn thực hiện giáo dục và giáo dưỡng trong các môn
học đạt kết quả đầy đủ thì ở nhà trường cần tổ chức ngoại khoá… Công tác
ngoại khoá bổ sung và nâng cao chất lượng của nội khoá lên một bước''. Vật
lí là một môn học bắt buộc ở trƣờng phổ thông của nƣớc ta hiện nay. Hoạt
động ngoại khoá về vật lí cũng là một phần trong hoạt động ngoại khoá ở
trƣờng phổ thông và đã đƣợc nghiên cứu từ lâu. Cho đến nay đã có nhiều đề
tài nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khoá về vật lí cho đối tƣợng học
sinh phổ thông, nhƣ: Nguyễn Thúy Nga – năm 2001; Nguyễn Văn Ngà – năm
2001; Nguyễn Văn Phán – 2002; Phạm Tuyết Mai – 2002; Trần Hữu Phƣớc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
(2007), Nghiên cứu việc tổ chức ngoại khóa về cơ học chất lưu chuyển động
nhằm phát triển tính tích cực, sáng tạo của học sinh THPT, Luận văn thạc sĩ
khoa học giáo dục; Trƣơng Đức Cƣờng (2007), Nghiên cứu xây dựng và tổ
chức một số chủ đề ngoại khóa phần điện học lớp 12(THPT) nhằm góp phần
giáo dục KTTH cho học sinh, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục; Nguyễn
Hƣơng Lan – 2007; Ngô Thị Bình (2009), Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động
ngoại khoá về Tĩnh học vật rắn ở lớp 10 THPT nhằm phát huy tính tích cực và
phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo
dục…nhƣng ở các phần khác nhau trong chƣơng trình vật lí và chƣa có đề tài
nào nghiên cứu hoạt động ngoại khoá về “Dòng điện không đổi ” ở lớp 11
THPT. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn hƣớng đề tài này.
1.2. Một số nội dung về lí luận dạy học ở trƣờng phổ thông
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc dạy học ở nhà trƣờng PT
* Mục tiêu giáo dục phổ thông
Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã đƣợc cụ thể hóa trong Luật giáo dục
(2005) nhƣ sau: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình
thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
* Nhiệm vụ quá trình dạy học
Để đào tạo con ngƣời đủ phẩm chất và năng lực thỏa mãn yêu cầu xã
hội, quá trình dạy học phải thực hiện các nhiệm vụ sau :
Điều khiển, tổ chức HS nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ bản,
hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội – nhân văn,
đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. [2]
Trong dạy học, phải tổ chức cho ngƣời học nắm vững hệ thống tri thức
phổ thông cơ bản, phù hợp với thực tiễn đất nƣớc về tự nhiên, xã hội, tƣ duy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Những tri thức khoa học phổ thông cơ bản đƣợc cung cấp cho ngƣời học phải
là những tri thức phản ánh những thành tựu mới nhất của các lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật, văn hóa phù hợp với chân lý khách quan. Trên cơ sở đó hình
thành ở ngƣời học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nhất định, đặc biệt là những kỹ
năng, kỹ xảo có liên quan đến hoạt động học tập: tự học, tập dƣợt nghiên cứu
khoa học ở mức độ thấp, nhằm giúp cho ngƣời học không chỉ nắm vững tri
thức mà còn biết vận dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong các tình
huống khác nhau.
Vì vậy, trong quá trình dạy học cần xác định các mức độ chiếm lĩnh tri
thức của ngƣời học ở các trình độ khác nhau từ nhận biết, tái hiện đến tái tạo,
tìm tòi và cuối cùng là khả năng kết hợp tất cả các mức độ trên.
Tổ chức điều khiển người học hình thành phát triển năng lực và những
phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo, phát triển thể
lực nâng cao sức khỏe để phục vụ học tập và lao động. [2]
Trong quá trình dạy học, ngƣời GV cần chú ý phát triển ở HS các năng
lực trí tuệ sau: năng lực định hƣớng đúng vấn đề nghiên cứu trong thực tế,
năng lực tƣ duy trừu tƣợng, năng lực di chuyển hành động trí tuệ, dự đoán
diễn biến của các hiện tƣợng, năng lực tổ chức lao động trí óc một cách khoa
học, năng lực tự học, năng lực hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo.
Đứng trƣớc sự bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ, việc hình thành cho
HS năng lực tự học một cách độc lập, sáng tạo gữi vai trò hết sức quan trọng, nó là
cơ sở để giúp con ngƣời có thể học tập thƣờng xuyên và học tập suốt đời.
Bên cạnh việc phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ, quá trình dạy học
có nhiệm vụ bồi dƣỡng cho HS một số phẩm chất hoạt động trí tuệ cả về bề
rộng, chiều sâu, tính độc lập, tính phê phán, tính mềm dẻo và tính năng động,
tính khái quát của hoạt động trí tuệ…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Nhƣ vậy, trong quá trình dạy học các phẩm chất của hoạt động trí tuệ nói
riêng và trí tuệ nói chung không ngừng phát triển và hoàn thiện. Ngƣợc lại, sự
phát triển trí tuệ trong chừng mực nhất định cũng ảnh hƣởng trở lại đối với
chất lƣợng quá trình dạy học. Nhƣ vậy giữa dạy học và phát triển trí tuệ có
mối quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy dạy học cần đi trƣớc, đón trƣớc và thúc đẩy
sự phát triển của ngƣời học. Muốn thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của ngƣời học thì
nói chung việc dạy học phải đảm bảo tính vừa sức với ngƣời học, các nhiệm vụ
dạy học phải tƣơng thích với “vùng phát triển gần nhất ” [23] tạo điều kiện đòi
hỏi ngƣời học phải không ngừng vƣơn lên với sự nỗ lực cao nhất.
Để phát triển trí tuệ cho HS cần chú ý tới các điều kiện sau:
+ Nắm đƣợc đặc điểm của đối tƣợng, đặc biệt là trình độ nhận thức của
đối tƣợng.
+ Có phƣơng pháp dạy học thích hợp nhằm phát huy trí thông minh của HS.
+ Lựa chọn nội dung dạy học một cách khoa học và hợp lý.
Bên cạnh phát triển trí tuệ, qúa trình dạy học có nhiệm vụ chăm lo phát triển thể
lực cho HS, giúp các em có sức khỏe để học tập và tham gia các hoạt động khác.
Tổ chức điều khiển người học, hình thành phát triển thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và các phẩm chất của người công dân, người lao động
có bản lĩnh và bản nghĩa cộng đồng. [2]
Để hình thành thế giới quan khoa học cho HS, qúa trình dạy học có
nhiệm vụ tổ chức, điều khiển HS nắm vững hệ thống tri thức về tự nhiên, xã
hội và tƣ duy…hình thành ở HS niềm tin về tính chân thực và hiệu quả của
kiến thức, hình thành thái độ lành mạnh với thực tiễn, hình thành quan điểm
sống tích cực. Trong qúa trình dạy học, GV cần giáo dục cho HS lý tƣởng,
những phẩm chất nhân cách của con ngƣời mà xã hội đặt ra: yêu nƣớc, yêu
chủ nghĩa xã hội, có lòng thƣơng ngƣời, có lòng tự trọng cao, có ý thức pháp
luật, có tính chủ động trong cuộc sống…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Giữa các nhiệm vụ dạy học có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ
nhau cùng thực hiện mục tiêu của qúa trình dạy học. Nhờ nắm vững kỹ năng,
kỹ xảo mà năng lực tƣ duy sáng tạo của con ngƣời không ngừng đƣợc phát
triển, sự phát triển của tƣ duy sẽ kèm theo sự phát triển của thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan và các phẩm chất đạo đức của con ngƣời từ đó hình thành
con ngƣời mới đáp ứng yêu cầu của xã hội.
* Nguyên tắc dạy học
Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính
chất xuất phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phƣơng pháp và hình thức
dạy học phù hợp với mục đích giáo dục, nhiệm vụ dạy học và với những tính
quy luật của quá trình dạy học... [2]
Hệ thống các nguyên tắc dạy học bao gồm :
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục
trong dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi
với hành, nhà trƣờng gắn liền với đời sống.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tính tích cực, tính
độc lập, sáng tạo của HS và vai trò chủ đạo của GV trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển
tƣ duy lý thuyết.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc và sự phát triển năng lực nhận thức của HS.
- Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá biệt và tính tập thể trong quá trình dạy học.
- Nguyên tắc đảm bảo tính cảm xúc tích cực của dạy học.
- Nguyên tắc chuyển từ dạy học sang tự học.
1.2.2. Các vấn đề chung về hình thức tổ chức dạy học ở trƣờng PT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Hình thức tổ chức dạy học là toàn bộ những cách thức tổ chức hoạt động
của GV và HS trong quá trình dạy học, ở thời gian và địa điểm nhất định với
những phƣơng pháp, phƣơng tiện dạy học cụ thể nhằm thực hiện những
nhiệm vụ dạy học.
Hình thức dạy học khác nhau chủ yếu tùy theo mối quan hệ giữa việc
dạy học có tính tập thể hay có tính cá nhân, mức độ tính tự lực hoạt động
nhận thức của HS, sự chỉ đạo chuyên biệt của GV đối với hoạt động học tập
của HS, chế độ làm việc, thành phần HS, địa điểm và thời gian học tập.
Trong thực tế dạy học, ngƣời ta phân biệt 3 dạng tổ chức dạy học: dạng
toàn lớp, dạng nhóm, dạng cá nhân.
* Các dạng tổ chức dạy học cơ bản [15], [9]
+ Dạng toàn lớp: Là dạng trong đó, mỗi HS đồng thời hoàn thành những
nhiệm vụ nhận thức chung.
- Ưu điểm: GV có thể lãnh đạo đồng thời mọi HS, tích cực điều khiển
việc lĩnh hội tri thức, việc ôn tập và củng cố tri thức cho toàn lớp.
- Nhược điểm: GV khó chú ý đến đặc điểm cá nhân, đặc biệt là đến tốc
độ hoạt động và trình độ hoạt động nhận thức của mỗi học sinh.
+ Dạng nhóm: Là dạng trong đó, từng nhóm HS cùng giải quyết những
nhiệm vụ nhận thức thống nhất. Các em có thể cùng thảo luận các nhiệm vụ
nhận thức, vạch ra con đƣờng và giải quyết các nhiệm vụ đó, cuối cùng đạt
đến kết quả chung.
- Ưu điểm: Giáo viên có thể chú ý tới những nhu cầu riêng của từng
nhóm HS, có thể mở ra khả năng rộng rãi để HS hợp tác hoạt động với nhau
cũng nhƣ để kiểm tra lẫn nhau.
- Nhược điểm: Những cá nhân HS nào đó do học tập thụ động có thể sử
dụng những kết quả mà những HS khá thu đƣợc. Mặt khác, nó còn có thể làm
nẩy sinh mâu thuẫn giữa những yêu cầu của GV và mức độ tích cực của cá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nhân HS riêng biệt, những yêu cầu do GV nêu ra hoặc khó quá, hoặc quá dễ
so với trình độ của từng HS.
+ Dạng cá nhân: Là dạng mà mỗi HS độc lập hoàn thành nhiệm vụ học
tập theo trình độ và khả năng riêng của mình, không có sự tác động của bạn bè.
- Ưu điểm: Phù hợp với mức độ cao nhất những đặc điểm cá nhân HS về
trình độ nhận thức, tốc độ làm việc. Dạng này tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi
cá nhân phát huy hết tiềm năng của mình, rèn luyện năng lực nhận thức độc
lập. Mặt khác, đối với GV về mặt giảng dạy có thể cá biệt hóa cao độ trong
việc đƣa ra nhiệm vụ nhận thức, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS.
- Nhược điểm: Dễ làm mất nhiều thời gian, đòi hỏi GV mất nhiều công
sức, không có tác động qua lại, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá nhân HS.
Tóm lại, mỗi dạng tổ chức dạ