Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 - 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà
văn nổi tiếng của Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9
tác gia của văn học Việt Nam hiện đại. Ông quê ở xã Nhân Mục (tên nôm là
Mọc), thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân,
Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học
cơ sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo
viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì "xê dịch"
qua biên giới không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm
1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng
một thời, Một chuyến đi. Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần
nữa vì giao du với những người hoạt động chính trị. Năm 1945, Cách mạng
tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng
chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1958,
ông giữ chức tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Các tác phẩm chính sau
cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông Đà (1960), một số tập ký
chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tuỳ bút về cảnh sắc và hương vị đất nước
148 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhịp văn xuôi trong ký Nguyễn Tuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––
NGUYỄN THANH NGA
NHỊP VĂN XUÔI TRONG KÝ
NGUYỄN TUÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––
NGUYỄN THANH NGA
NHỊP VĂN XUÔI TRONG KÝ
NGUYỄN TUÂN
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Giáo viên hƣớng dẫn: TS. HOÀNG CAO CƢƠNG
THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn
thạc sỹ Ngôn ngữ học với đề tài: “Nhịp văn xuôi trong ký Nguyễn Tuân”.
Để thực hiện được luận văn, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của bản thân tôi
đã được sự dạy bảo, động viên giúp đỡ của các thầy cô giáo, bạn bè đồng
nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hoàng Cao Cương -
người đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau đại học, Ban chủ
nhiệm khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo trường đại học Sư phạm Thái Nguyên
đã tạo đều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình và người thân, xin cảm ơn
anh em bạn bè và đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi thực hiện thành công
luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 08 năm 2010
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Nga
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 3
3.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................... 3
3.2. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................... 3
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 3
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3
4.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 4
7. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 4
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................... 5
1.1. Nguyễn Tuân và thể ký ........................................................................ 5
1.2. Giới thiệu một số thuật ngữ có liên quan trực tiếp tới đề tài ............... 10
1.2.1. Ký ............................................................................................... 10
1.2.2. Nhịp điệu .................................................................................... 16
1.2.2.1. Nhịp điệu là gì? ............................................................... 16
1.2.2.2. Nhịp văn xuôi và nhịp trong văn xuôi Việt Nam .............. 18
1.2.2.3. Nhịp điệu với nhạc tính và hình tượng trong văn xuôi ..... 26
1.2.3. Một số phương thức chính thường gặp trong văn xuôi có nhịp ... 30
1.2.3.1. Lặp Ngữ âm.................................................................... 31
1.2.3.2. Lặp Từ vựng ................................................................... 32
1.2.3.3. Lặp Cú pháp ................................................................... 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
1.2.3.4. Phép Đối ........................................................................ 38
1.2.3.5. Cấu trúc Sóng đôi .......................................................... 39
1.2.3.6. Câu đơn Đặc biệt ........................................................... 40
1.2.3.7. Trường cú ...................................................................... 42
Chƣơng 2. NGUYỄN TUÂN TẠO NHỊP CHO KÝ ................................. 45
2.1. Nhận xét chung .................................................................................. 45
2.2. Ví dụ minh họa .................................................................................. 48
2.2.1. Lặp Ngữ âm ................................................................................ 48
2.2.2. Lặp Từ vựng ............................................................................... 49
2.2.3. Lặp Cú pháp ............................................................................... 49
2.2.4. Phép đối ..................................................................................... 50
2.2.5. Cấu trúc sóng đôi ........................................................................ 50
2.2.6. Câu đơn Đặc biệt ........................................................................ 51
2.2.7. Trường cú ................................................................................... 51
2.3. Nhận xét bước đầu về cách tạo nhịp của Nguyễn Tuân trong ký ........ 52
2.4. Tiểu kết ............................................................................................. 57
Chƣơng 3. TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHỊP ĐIỆU TRONG KÝ
NGUYỄN TUÂN ...................................................................... 58
3.1. Tăng cường tiết nhịp nhằm gây ấn tượng nhạc điệu ........................... 58
3.2. Tăng cường tiết nhịp nhằm liên kết chặt văn bản ............................... 63
3.3. Tăng cường tiết nhịp nhằm nhấn mạnh chủ đề ................................... 71
3.4. Tiểu kết ............................................................................................. 77
KẾT LUẬN ................................................................................................. 78
DANH MỤC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM ....................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 81
PHỤ LỤC.................................................................................................... 84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Maiacốpxki từng nói Nhịp điệu là sức mạnh chủ yếu, là năng
lượng chủ yếu của câu thơ. Tuy nhiên, nhịp điệu không là đặc quyền chỉ của
thơ. Trong văn xuôi cũng tồn tại nhịp điệu. Nhịp trong văn xuôi không gò bó
quá như trong thơ mà tương đối tự do. Văn xuôi có nhịp điệu thường gặp,
đặc biệt trong "văn xuôi có chất thơ " (prose poetique). Chưa ai xác định
được ranh giới giữa văn xuôi có nhịp điệu và văn xuôi thông thường nên chỉ
có thể hiểu nhịp điệu là sự phân bố chỗ ngắt giọng, âm thanh bằng trắc, điểm
dừng có vai trò thẩm mỹ, tuy rằng nó độc lập với các vần, luật thơ. Việc
nghiên cứu về nhịp điệu của văn xuôi tuy khó khăn hơn, song lại là công
việc rất nên được quan tâm, bởi vì thực tiễn văn chương cho thấy nhiều áng
văn xuôi khi đưa được nhịp điệu vào thì sức lan tỏa trở nên rộng lớn hơn,
biểu cảm mạnh hơn. Những bài ký của Nguyễn Tuân, Thép Mới, Nguyễn
Trung Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, v.v… Chính là những mẫu mực
ngày nay cho cách dùng văn chương có nhịp điệu.
1.2. Nguyễn Tuân là một trong chín nhà văn được chọn học trong
chương trình phổ thông với tư cách là tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông là một trong số không nhiều nhà văn đã tạo được cho
mình một phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo và có nhiều cống hiến cho
văn chương Việt Nam thế kỉ XX. Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học
đồ sộ với những trang viết độc đáo và tài hoa. Ông xứng đáng được coi là
một nghệ sĩ lớn. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Văn nghiệp của Nguyễn Tuân trải qua hai giai đoạn trước và sau cách
mạng. Với thể loại ký, Nguyễn Tuân đã tìm được cho mình một hướng đi
riêng, mà cho đến nay chưa ai vượt được. Ông được tôn vinh là nhà tùy bút
số một Việt Nam. Ông để lại được dấu ấn và tên tuổi của mình chính nhờ thể
loại này.
1.3. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn có ý thức khám phá và cống hiến tài
năng của mình cho văn chương. Ông đã từng thử sức ngòi bút của mình qua
nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết…. nhưng tuỳ bút là thể loại mà
ông thành công nhất. Từ trước tới nay đã có nhiều công trình khảo sát, nghiên
cứu về sáng tác của Nguyễn Tuân ở nhiều góc độ khác nhau. Song, để tìm
hiểu và nghiên cứu chuyên sâu vào nhịp điệu văn xuôi trong ký Nguyễn Tuân,
làm rõ hơn phong cách Nguyễn Tuân thì chưa có công trình nào thực hiện
một cách hệ thống. Bên cạnh đó, với tinh thần đổi mới phương pháp và quan
điểm dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là chú ý tích hợp các
phương diện nghệ thuật liên quan đến tác phẩm văn học, chúng tôi đã chọn
nhịp điệu trong thể ký của Nguyễn Tuân để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Nhịp và nhạc điệu trong tác phẩm văn chương trong thơ ca truyền
thống thường được bàn thông qua các nguyên tắc về niêm, luật trong thi ca.
Nhịp và nhạc điệu trong văn xuôi ít được bàn luận hơn, do chỗ các sáng tác
trong truyền thống đa phần là thi ca hoặc bị thi ca hóa (lối văn bát cổ). Đây là
đặc trưng của thi pháp trung đại (Trần Đình Sử, Phan Ngọc).
Trong thời cận và hiện đại, khi văn xuôi thực sự có chỗ đứng trên văn
đàn, nhịp và nhạc điệu tồn tại như một thực tế tự nhiên, nhưng vẫn chưa được
các nhà lí luận quan tâm bởi các lí do sau đây:
- Ranh giới giữa thơ và văn, giữa văn vần và thơ trong thực tế chưa hẳn
đã rõ ràng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
- Khi bàn về thơ, người ta chú ý nhiều đến số lượng chữ trong dòng,
cách gieo vần, nhưng chưa chú ý thoả đáng đến cắt nhịp và vai trò của nhịp.
- Đặc trưng loại hình ngôn ngữ, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, ảnh
hưởng nhiều đến tri nhận thi ca: hầu như mỗi tiếng, do đặc điểm ngữ nghĩa có
tính độc lập tương đối, đều có thể được tách ra để tạo thành chân, thành nhịp
tương đương với hai đơn vị cơ bản của nhạc điệu phổ quát.
- Tài liệu lí luận về nhịp trong văn xuôi chưa nhiều.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của công trình là tìm hiểu đặc trưng và hiệu quả của nhịp
điệu trong ký Nguyễn Tuân. Qua đó, mong muốn bước đầu khắc họa được
thần thái của ký Nguyễn Tuân và phong cách nghệ thuật của ông.
Đề tài giúp cho việc hiểu tác phẩm ký của Nguyễn Tuân chân xác hơn
và giúp cho việc giảng dạy, học tập về Nguyễn Tuân ở các bậc học có kết quả
tốt hơn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của công trình này là nhịp điệu trong các tác phẩm ký sau
1945 của Nguyễn Tuân.
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:
Giới thiệu được những nét cơ bản về Nguyễn Tuân và thể ký.
Nêu được cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài, cụ thể là liên quan đến
nhịp điệu và các phương thức tạo nhịp văn xuôi.
Khảo sát tư liệu để tìm ra các phương thức tạo nhịp văn xuôi của ký
Nguyễn Tuân.
So sánh với vài tác giả ký nổi tiếng khác để thấy được nét riêng của
nhịp văn xuôi trong ký Nguyễn Tuân.
Chỉ ra được các tác dụng văn chương của nhịp trong ký Nguyễn Tuân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn trong khảo sát nhịp và tính nhạc trong 13 bài ký sau
1945 của Nguyễn Tuân, khoảng 200 trang tác phẩm. Đương nhiên để khắc
họa sâu đặc tính nhịp và nhạc điệu của ông, luận văn có tiến hành so sánh ông
với các tác giả ký quen thuộc khác (sau 1945) như Thép Mới, Nguyễn Trung
Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường…
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống, phân loại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích diễn ngôn
- Phương pháp ứng dụng của thi pháp học
6. Đóng góp của luận văn
- Đề tài luận văn là sự tiếp nối những công trình khoa học nghiên cứu
về tác giả Nguyễn Tuân. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cố
gắng tìm ra điểm mới khi đi sâu vào mảng nhịp văn xuôi của ký Nguyễn Tuân
- một lĩnh vực còn chưa được quan tâm một cách đầy đủ và hệ thống.
- Đề tài Nhịp văn xuôi trong ký Nguyễn Tuân góp phần làm rõ hơn
phong cách và đặc điểm thể loại ký của Nguyễn Tuân nói chung và các bài ký
của ông mà luận văn đã chọn nghiên cứu nói riêng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Thư mục tham khảo, luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Nguyễn Tuân tạo nhịp cho ký
Chương 3: Tìm hiểu vai trò của nhịp điệu trong ký Nguyễn Tuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Nguyễn Tuân và thể ký
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 - 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà
văn nổi tiếng của Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9
tác gia của văn học Việt Nam hiện đại. Ông quê ở xã Nhân Mục (tên nôm là
Mọc), thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân,
Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học
cơ sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo
viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì "xê dịch"
qua biên giới không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm
1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng
một thời, Một chuyến đi... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần
nữa vì giao du với những người hoạt động chính trị. Năm 1945, Cách mạng
tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng
chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1958,
ông giữ chức tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Các tác phẩm chính sau
cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông Đà (1960), một số tập ký
chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tuỳ bút về cảnh sắc và hương vị đất nước.
Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của
dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn
Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu hoặc ca từ của
các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là
"chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với
chế độ thuộc địa (hai lần bị tù). Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa.
Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ,
điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói và là một
diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam.Ông thường vận dụng con mắt của
nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để mài sắc khả năng quan sát, diễn tả của
nghệ thuật văn chương. Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự
nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động
nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn
nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác
phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: Thơ, bút ký, truyện ngắn
hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở
trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi,
Vang bóng một thời, Thiếu quê hƣơng, Chiếc lƣ đồng mắt cua.
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay
quanh ba đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời
sống truỵ lạc". Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết "chủ nghĩa xê dịch" này
trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa
xê dịch", Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối
với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi
bút đầy trìu mến và tài hoa.
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của
quá khứ còn "vang bóng một thời". Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xa xưa
với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã.
Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng vẫn không chịu quy thuận về với xã
hội thực dân (như Huấn Cao - Chữ ngƣời tử tù). Nguyễn Tuân cũng hay viết
về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có
một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh
thần ấy, vẫn chợt lóe lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục những khát khao
về một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lƣ đồng mắt cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục
vụ cuộc chiến đấu của dân tộc. Nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục
vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và
phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều
trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân
dân lao động trong chiến đấu và sản xuất.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân quả là độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách này có thể thâu tóm trong một chữ
"Ngông". Mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên
bác. Và mọi sự vật được miêu tả dẫu chỉ là cái ăn, cái uống, vẫn được quan
sát một cách tinh tường từ phương diện văn hoá của nó. Sau Cách mạng, ông
không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân, bao giờ
cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
Do cá tính và phong cách riêng, Nguyễn Tuân tìm đến thể tài tuỳ bút
như một tất yếu. Cả cuộc đời cầm bút, Nguyễn Tuân trung thành với lối chơi
ấy. Tuỳ bút là sở trường của Nguyễn Tuân và tài năng ấy cũng được ông phát
huy cao độ thể văn này. Chỉ có thể văn xuôi tự do phóng túng này mới giúp
nhà văn mặc sức phô bày những cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, những tài hoa
và sự uyên bác của mình một cách tự nhiên thoải mái. Tên tuổi của Nguyễn
Tuân gắn liền với thể loại tuỳ bút. Trên cơ sở thống kê sự nghiệp sáng tác của
nhà văn chúng tôi thấy: Tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự tổng cộng khoảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
1153 trang, trong khi đó tuỳ bút chiếm khoảng 3118 trang. Nguyễn Tuân dù
viết gì cũng hướng đến tuỳ bút, nói như Trương Chính thì: "Truyện ngắn,
truyện dài, phóng sự của ông tất cả đều là những thiên tuỳ bút trá hình"
[25,tr.54].
Tuỳ bút Nguyễn Tuân mang đậm chất ký, nghĩa là ghi chép sự thật và
thông tin thời sự chính xác, "một thứ tuỳ bút pha du ký" [25,tr.120]. Pôlêvôi đã
nói: "Một bài ký sự hay quả thật là một bài có đủ mọi đặc trưng của thể loại
báo chí thuần tuý, nó hết sức cụ thể, có thể tái hiện được sự thật chân chính.
Những nhân vật tạo nên phải là những con người có thật trong cuộc sống hiện
thực, những sự việc mô tả phải dính chặt với địa điểm đúng như người ta
thường nói: Ký sự có địa chỉ chính xác của nó" [26,tr.426]. Điều này thật có lí
khi thể loại ký ở nước ngoài còn được gọi là "văn học báo cáo", "văn học tư
liệu - nghệ thuật". Từ việc bám sát người thật việ