Thế kỷ XXI trong xu thếchung của thếgiới là hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển, hợp tác liên kết với nhau giữa các nước, các tổchức quốc tếlà
những đòi hỏi cần thiết của các quốc gia và là những đòi hỏi tất yếu khách quan
hiện nay.
Ngày nay, mỗi một quốc gia muốn phát triển theo kịp xu thếchung của thế
giới cần phải “mởcửa” trong quan hệ, thực tế đã chứng minh không một quốc
gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu có hay nghèo khổcũng không thể“khép kín” tự
sản xuất tất cảnhững sản phẩm phục vụnhu cầu của mình, vì thếcần phải “mở
cửa” trong quan hệkinh tế, chính trị, xã hội và hợp tác văn hóa - giáo dục đểtrao
đổi học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau.
ỞViệt Nam tưtưởng “mởcửa” đã xuất hiện từlâu trong lịch sửdựng
nước và giữnước của dân tộc, chính sách ngoại giao mởcửa thông thương tạo
dựng môi trường chung sống thuận lợi giữa nhân dân Việt Nam với các nước bên
ngoài. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩxâm lược nhân dân Việt
Nam đã sửdụng ngoại giao làm vũkhí đấu tranh chiến lược phối hợp cùng với
mặt trận quân sựtạo nên thếtrận vừa đánh vừa đàm. Trong xu thếchung toàn
cầu hóa trên thếgiới, vào tháng 12 năm 1986 tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứVI đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới
về đối ngoại. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng Việt Namtrong giai đoạn này là “tranh thủ điều kiện
quốc tếthuận lợi cho sựnghiệp xây dựng và bảo vệtổquốc”. Tuy nhiên, trên thế
giới vẫn còn tồn tại những xung đột, mâu thuẩn gay gắt giữa các nước nhưchiến
tranh sắc tộc, tôn giáo, xung đột vũtrang, các hoạt động can thiệp lật đổhoặc
những hoạt động khủng bốcòn diễn ra với nhiều hình thức phức tạp khác nhau.
Trên thếgiới sau khi chiến tranh lạnh kết thúc với xu thếchung lấy kinh tế
làm trung tâm và quá trình toàn cầu hóa làm cho mối quan hệgiữa các nước lớn
với nhau cũng diễn ra nhiều mâu thuẩn khó có thểnói hết được, các nước lớn vừa
hợp tác nhưng lại vừa mâu thuẩn cạnh tranh với nhau. Điểm nổi bật của xu thế
toàn cầu hóa đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho nền kinh tếtrên toàn thế
giới giống nhưmột chỉnh thểmà trong đó nền kinh tếcủa mỗi quốc gia lại là một
bộphận có quan hệmật thiết với nhau, hỗtrợcho nhau. Tuy tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa nhưng mỗi một quốc gia đều hoàn toàn độc lập vềchính trị, xã
hội, đồng thời quá trình toàn cầu hóa cũng đem lại những tính chất phức tạp ảnh
hưởng nhiều đến tình hình an ninh chính trị, kinh tếcủa thếgiới hiện nay.
133 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 – 2005), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------
Lê Thị Yến Anh
QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU
(1969 – 2005)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------
Lê Thị Yến Anh
QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU
(1969 – 2005)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI trong xu thế chung của thế giới là hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển, hợp tác liên kết với nhau giữa các nước, các tổ chức quốc tế là
những đòi hỏi cần thiết của các quốc gia và là những đòi hỏi tất yếu khách quan
hiện nay.
Ngày nay, mỗi một quốc gia muốn phát triển theo kịp xu thế chung của thế
giới cần phải “mở cửa” trong quan hệ, thực tế đã chứng minh không một quốc
gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu có hay nghèo khổ cũng không thể “khép kín” tự
sản xuất tất cả những sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình, vì thế cần phải “mở
cửa” trong quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và hợp tác văn hóa - giáo dục để trao
đổi học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau.
Ở Việt Nam tư tưởng “mở cửa” đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, chính sách ngoại giao mở cửa thông thương tạo
dựng môi trường chung sống thuận lợi giữa nhân dân Việt Nam với các nước bên
ngoài. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ xâm lược nhân dân Việt
Nam đã sử dụng ngoại giao làm vũ khí đấu tranh chiến lược phối hợp cùng với
mặt trận quân sự tạo nên thế trận vừa đánh vừa đàm. Trong xu thế chung toàn
cầu hóa trên thế giới, vào tháng 12 năm 1986 tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới
về đối ngoại. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là “tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Tuy nhiên, trên thế
giới vẫn còn tồn tại những xung đột, mâu thuẩn gay gắt giữa các nước như chiến
tranh sắc tộc, tôn giáo, xung đột vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ hoặc
những hoạt động khủng bố còn diễn ra với nhiều hình thức phức tạp khác nhau.
Trên thế giới sau khi chiến tranh lạnh kết thúc với xu thế chung lấy kinh tế
làm trung tâm và quá trình toàn cầu hóa làm cho mối quan hệ giữa các nước lớn
với nhau cũng diễn ra nhiều mâu thuẩn khó có thể nói hết được, các nước lớn vừa
hợp tác nhưng lại vừa mâu thuẩn cạnh tranh với nhau. Điểm nổi bật của xu thế
toàn cầu hóa đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho nền kinh tế trên toàn thế
giới giống như một chỉnh thể mà trong đó nền kinh tế của mỗi quốc gia lại là một
bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Tuy tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa nhưng mỗi một quốc gia đều hoàn toàn độc lập về chính trị, xã
hội, đồng thời quá trình toàn cầu hóa cũng đem lại những tính chất phức tạp ảnh
hưởng nhiều đến tình hình an ninh chính trị, kinh tế của thế giới hiện nay.
Về phía Việt Nam, chủ trương đổi mới của nước ta đã nhanh chóng được
thực hiện trong đó có mở rộng chính sách đối ngoại với các nước trên thế giới.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ “nhiệm vụ ổn
định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát
triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến
hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” [25, tr 81].
Đảng và nhà nước Việt Nam đổi mới nhiều chủ trương chính sách và các
phương thức hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại để tăng cường mối quan hệ hợp
tác hữu nghị giữa các nước, Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần
nữa đã xác định quyết tâm muốn mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các
nước trên thế giới, từng bước hội nhập vào xu thế chung của khu vực và quốc tế,
là bạn của tất cả các nước nhằm mục đích học hỏi kinh nghiệm, trao đổi hợp tác
trên nhiều lĩnh vực. Đại hội Đảng lần IX đã xác định nhiệm vụ: “thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, chính sách đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẳn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy
của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế ” [ 28, tr 42 ].
Với chủ trương muốn “làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế” Đảng và nhà nước Việt Nam không những đã mở rộng
các quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn mở rộng
quan hệ hợp tác với nhiều nước phát triển thuộc nhiều khu vực khác nhau trong
đó có Liên minh Châu Âu. Đối với các nước Bắc Âu đây là những nước có quan
hệ hợp tác lâu dài với Việt Nam, là một trong các đối tác quan trọng của Việt
Nam, các nước này đã và đang ủng hộ giúp đỡ hợp tác tích cực với nước ta trong
cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng
đất nước hiện nay.
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á với những điều kiện tự nhiên, kinh
tế thuận lợi đây là một khu vực có nhiều tiềm năng để hợp tác phát triển kinh tế
trong nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, Việt Nam còn là một thị trường có nhiều tiềm
năng với dân số hơn 80 triệu người, lực lượng lao động dồi dào, đất nước đang
trong giai đoạn phát triển từng bước hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa vì vậy Việt
Nam được đánh giá là một địa chỉ đáng tin cậy để đầu tư và hợp tác.
Trong các mối quan hệ hợp tác quốc tế Việt Nam được Liên minh Châu
Âu đánh giá cao và tích cực đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương,
buôn bán hai chiều, các nước Bắc Âu cũng không nằm ngoài quy luật đó các nhà
tư bản Bắc Âu đang từng bước thâm nhập vào thị trường rộng lớn ở Việt Nam.
Sau khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước Bắc Âu, trong
giai đoạn đầu Việt Nam chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại từ các nước Bắc
Âu. Từ khi Hiệp định khung được chính thức ký kết giữa Việt Nam với Liên
minh Châu Âu, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu được tiến hành
trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, giáo dục đào tạo, y tế,
khoa học kỹ thuật, du lịch… nhằm nhanh chóng thu hút nhiều vốn đầu tư nước
ngoài, học hỏi kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật công nghệ, thị trường… từ các
nước Bắc Âu để đưa Việt Nam vượt qua tình trạng lạc hậu kéo dài trong nhiều
năm tiến tới việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu không
chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn đáp ứng những nhu cầu thực tiển của đất
nước hiện nay, những kết quả nghiên cứu sẽ giúp chúng ta có được những bài
học kinh nghiệm, tìm được những thuận lợi và khó khăn trong mối quan hệ giữa
hai bên đồng thời trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp, những chính sách phù
hợp để phát huy mối quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả hơn.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ trước
đến nay chưa được các nhà khoa học Lịch sử Việt Nam nghiên cứu. Quá trình
phát triển của Việt Nam trong tương lai đòi hỏi cần phải tiếp cận đến những vấn
đề hội nhập quốc tế và khu vực mang nhiều lợi ích cho đất nước một cách khách
quan nhất.
Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiển trên chúng tôi quyết định chọn đề
tài “Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu (1969 -2005)” với mong
muốn khái quát, tổng hợp lại mối quan hệ này. Từ đó đưa ra những nhận định về
quá trình phát triển hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trên cơ sở tác
động của tình hình thế giới, khu vực và sự phát triển nội tại của Việt Nam trong
những thời điểm khác nhau.
2. Lịch sử vấn đề
Theo hiểu biết của chúng tôi đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, chỉ có
một số sách đã xuất bản đề cập đến vấn đề này chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế
nhưng lại được lồng ghép trong mối quan hệ chung của khu vực EU và thế giới.
Ở trong nước có một số sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
“Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu Âu” của tiến sĩ Trần Thị Kim Dung, Nhà
xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt Nam – Liên
hiệp Châu Âu (1990 -2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, 2006; “Thúc đẩy quan hệ thương mại đầu tư giữa liên
hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI”
tác giả Bùi Huy Khoát (chủ biên), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2001; “Việt
Nam và các nước Tây Bắc Âu trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững
bản sắc” tác giả Nguyễn Dy Niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; “Các
quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và
đầu tư, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2006; “Quan hệ EU –ASEAN trước ngưỡng cửa
thế kỉ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng” tác giả Bùi Huy Khoát, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “Hợp tác Á –Âu và vai trò của Việt Nam” tác
giả Nguyễn Duy Quý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Quan hệ kinh tế
thương mại Việt Nam – EU”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
Mặt khác còn có nhiều bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa Việt Nam với
các nước Bắc Âu được đăng tải trên các tạp chí, các báo như : “Khả năng hợp tác
kinh tế Việt Nam - Thụy Điển” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu
Âu, số 6 năm 1998; “Hợp tác Việt Nam – Đan Mạch hướng tới thế kỷ 21” của
Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 5 năm 1999; “Quan hệ
Việt Nam – Na Uy những năm gần đây” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 1999; “Bước phát triển mới trong quan hệ Việt
Nam - Thụy Điển” của Nguyễn Thanh Lan, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 66
năm 2005; “Cộng hòa Phần Lan và quan hệ hữu nghị hợp tác với Việt Nam” của
Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 năm 2000; “Đan Mạch -
Một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam” của Vũ Chiến Thắng, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 49 năm 2003; “Việt Nam – Đan Mạch: hỗ trợ trên cơ sở
bình đẳng” của Hồng Phúc, Tuần báo quốc tế, số 12 năm 1996; “Việt Nam -Thụy
Điển: Quan hệ hợp tác quốc tế không ngừng phát triển” của Đỗ Lan Phương, Tạp
chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3 năm 2000. Ngoài ra còn có một số bài viết khác
được lồng ghép chung với mối quan hệ của EU và thế giới như: “Toàn cầu hóa
kinh tế - một số tác động tới quá trình liên kết kinh tế EU – ASEAN” của tiến sĩ
Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 20 năm 2003; “Thúc đẩy quan
hệ kinh tế EU –ASEAN: cơ hội phát triển cho các nước thành viên mới của
ASEAN” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 50 năm 2003;
“Thực trạng và triển vọng hợp tác đầu tư Việt Nam – EU” của Nguyễn Duy
Quang, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 1 năm 2000; “Vai trò của Liên minh
Châu Âu đối với sự phát triển thương mại Việt Nam” của Hoàng Xuân Hòa, Tạp
chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2000; “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu
Âu từ 1995 tới nay”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 6 năm 2001; “Tổng quan
về hợp tác Việt Nam – EU năm 2000”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm
2002; “Quan hệ hợp tác Việt Nam với EU về lĩnh vực dầu khí và du lịch” của Vũ
Văn Phúc, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 năm 2002; “Quan hệ kinh tế Việt
Nam với Liên minh Châu Âu” của Trần Văn Chu, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu,
số 6 năm 2002; “Đổi mới chính sách đối ngoại nhằm phát triển hợp tác Việt Nam
– Châu Âu trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao” của Nguyễn Hoàng Giáp, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 54 năm 2003; “Tiến trình hợp tác Á –Âu và sự tham
gia của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số
59 năm 2004; “Việt Nam trong tiến trình ASEM: cơ hội và thách thức” của
Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 61 năm 2005; “Tình
hình chính trị - xã hội của EU hiện nay (2001- 2005) và những tác động đến Việt
Nam” của Đinh công Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 62 năm 2005; “Hợp
tác phát triển Việt Nam – EU những kết quả bước đầu” của Nguyễn Hồng Vân,
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 63 năm 2005…
Ở ngoài nước: có những công trình nghiên cứu như: Brian B., Coping
with Contagion: Europe and the Asian Financial Crisis, Asian Survey,May/June;
Dent C.M., The European Union and East Asia: Geo – Economic Diplomacy
and Crisis Management, Global Change: The Impact of Asia in the 21st Century,
Macmillan, London…
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo các nguồn tài liệu từ các Văn kiện của
Đảng, nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, các Hiệp định, các văn bản ký kết
giữa hai nước, các tài liệu liên quan đến mối quan hệ giữa Việt Nam với các
nước Bắc Âu được lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – TPHCM, các số
liệu của Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê…Các
trang web của Đảng Cộng sản Việt Nam (www.cpv.org.vn),Quốc hội Việt
Nam(www.na.gov.vn), Bộ Văn hóa - Thể thao du lịch (www.cinet.vnn.vn), Bộ
Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn), Tổng Cục thống kê
(www.gso.gov.vn), Bộ kế hoạch đầu tư (www.mpi.gov.vn), Bộ Công Thương
(www.mot.gov.vn).....
Còn có một số trang website khác của Đại sứ quán các nước Bắc Âu như:
Đại sứ quán Thụy Điển (www.hanoi.embassy.ud.se), Đại sứ quán Na Uy
(www.norway.org.vn ), Đại sứ quán Phần Lan ( www.finland.org.vn/en/ ), Đại sứ
quán Đan Mạch ( www.dk-vn.dk), Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển
(SIDA) (www.Sida.moci.gov.vn), Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam -
Thụy Điển (www.sarec.gov.vn)...
Nhìn chung tài liệu này tương đối nhiều nhưng không hệ thống và khái
quát các vấn đề về quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu, các số liệu trích
dẫn từ nhiều nguồn có sự chênh lệch nhau, không nhất quán đã gây không ít khó
khăn trong quá trình tổng hợp và phân loại tài liệu của người thực hiện đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi dựa trên những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng hai phương pháp
chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Đồng thời chúng tôi
cũng vận dụng cơ sở phương pháp luận, các phương pháp liên ngành khác như
phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, phương pháp nghiên cứu kinh tế… và
các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê.
Dựa vào phương pháp lịch sử chúng tôi muốn dựng lại toàn bộ quá trình
lịch sử trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu qua các sự kiện,
dấu mốc và từng giai đoạn cụ thể của mối quan hệ dưới sự tác động của tình hình
thế giới, khu vực và tình hình phát triển của Việt Nam. Trên cơ sở của bức tranh
lịch sử toàn cảnh, phương pháp logic vạch ra những bản chất của mối quan hệ
giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu nhằm tìm ra được những thuận lợi, những
khó khăn trong mối quan hệ hợp tác giữa các bên và tìm ra những giải pháp thúc
đẩy mối quan hệ có hiệu quả hơn trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu chúng tôi vận dụng những
quan điểm cơ bản tư tưởng của Hồ Chí Minh trong chính sách đối ngoại và
những quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới .Bên
cạnh đó chúng tôi luôn bám sát vận dụng những quan điểm đánh giá nhận định
của Đảng về tình hình quốc tế và khu vực trong những văn kiện Đảng đặc biệt về
những chính sách đối ngoại và xem đây là cơ sở mang tính lý luận và định hướng
trong quan điểm và tiếp cận nguồn tài liệu .
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian, giới hạn đề tài trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến
năm 2005 trong đó lấy Việt Nam làm chủ thể nghiên cứu chính. Sở dĩ chúng tôi
chọn mốc thời gian từ 1969 – 2005 vì từ năm 1969 Thụy Điển là nước Châu Âu
đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa
trong lúc cuộc chiến tranh chống Mĩ của nhân dân Việt Nam đang diễn ra quyết
liệt. Chúng tôi chọn năm 2005 là mốc kết thúc vì trong năm này Việt Nam đã mở
Đại sứ quán Việt Nam tại Helsinki, sự kiện này đã mở ra một bước tiến trong
mối quan hệ giữa Việt Nam với Phần Lan nhất là trong lĩnh vực thương mại và
đầu tư. Tuy nhiên, để làm rõ hơn nữa mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước
Bắc Âu chúng tôi có đề cập đến mối quan hệ này trong giai đoạn trước năm
1969.
Sở dĩ, chúng tôi không chọn mốc thời gian khởi đầu cho việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1945 trước khi hai bên
thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ vì trong giai đoạn này quan hệ giữa hai
bên bị chi phối bởi trật tự hai cực Ianta, quan hệ quốc tế trên thế giới lúc này
được tuân theo chuẩn mực cùng nhau hay khác nhau về ý thức hệ. Ngoài ra,
trong chính sách đối ngoại của các nước Bắc Âu đều thực hiện chính sách đối
ngoại trung lập, không liên kết quân sự vì thế giữa Việt Nam với các nước Bắc
Âu chưa thiết lập được quan hệ chính thức nào.
Năm 1954 được chúng tôi chọn làm mốc khởi đầu cho việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước khi hai bên thiết lập quan
hệ ngoại giao vì trong thời gian này mặc dù thực hiện chính sách đối ngoại trung
lập nhưng các nước Bắc Âu vẫn muốn giữ cân bằng trong quan hệ với các nước
lớn. Từ năm 1954 từng nước Bắc Âu đã thiết lập mối quan hệ song phương với
chính quyền miền Nam Việt Nam. Sau khi nhận thấy nguy cơ sa lầy và thất bại
của Mĩ, cùng với các phong trào đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế
giới phát triển mạnh, nên năm 1969 Thụy Điển là nước Bắc Âu đầu tiên thiết lập
quan hệ ngoại giao với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Bắc Âu (Na
Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch) trong điều kiện tình hình thế giới và khu
vực có nhiều biến động do đó những chính sách, biện pháp trong các chính sách
đối ngoại của chính phủ Việt Nam phải phù hợp với tình hình chung của thế giới.
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lấy Việt Nam làm chủ thể nghiên cứu chính
trong mối quan hệ giữa các bên.
5. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở phân tích, so sánh các tài liệu thu thập được, chúng tôi cố
gắng hệ thống lại hoàn chỉnh mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu
trên nhiều lĩnh vực hợp tác từ năm 1969 đến năm 2005 với những thuận lợi lẫn
khó khăn.
- Trên cơ sở của mối quan hệ này, chúng tôi đưa ra những nhận xét, đánh
giá để nhìn thấy được những khó khăn trong quá khứ để có những chính sách
phù hợp. Từ đây rút ra những bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách
thức trong bối cảnh của tình hình mới, từ đó đề ra những giải pháp hợp lý nhằm
thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị hợp tác có hiệu quả hơn nữa trong hiện tại và
tương lai.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử, Quan
hệ quốc tế…
6. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tham khảo và
phụ lục, nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1969
đến năm 1975.
Chương 2: Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu từ năm 1976
đến năm 2005.
Chương 3: Những thách thức, cơ hội và những giải pháp thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu.
Chương 1: QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC BẮC ÂU TỪ
NĂM 1969 ĐẾN NĂM 1975
1.1. Khái quát mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Bắc Âu trước
khi đặt quan hệ ngoại giao cấp đại sứ (1954 -1968)
1.1.1. Đôi nét về các nước Bắc Âu
Khu vực Bắc Âu gồm ba nước nằm trên bán đảo Scandinavia (Na Uy,
Thụy Điển, Phần Lan) và hai nước Aixơlen, Đan Mạch. Khu vực Bắc Âu nằm ở
các vĩ độ cao nhất của châu Âu, có địa hình băng hà cổ, khu vực Bắc Âu có diện
tích khoảng 1.258.423 km2 trong đó Thụy Điển là quốc gia có diện tích lớn nhất
(449.964 km2) phần lớn diện tích ở đây nằm trong vùng khí hậu ôn đới lục địa,
lạnh. Mặc dù, Bắc Âu có những đặc điểm khí hậu chung