1. Tính cấp thiết của đề tàiThế kỷ XXI, nền kinh tế chuyển dần từ lao động chân tay sang lao động trí óc, các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao thường có giá trị lớn, tiêu hao tài nguyên thiên nhiên ít, sự ô nhiễm môi trường được hạn chế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 được Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 11 đã khẳng định: mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước Công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 thì giải pháp mang tính tính đột phá đó là: phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và các chính sách bảo đảm việc làm sau đào tạo.Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ rất ấn tượng trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và đã hoàn thành một số mục tiêu, Việt Nam được đánh giá cao về xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động. Trong giai đoạn hiện nay; Đảng, Nhà nước ta xác định hướng phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện khách quan và chủ quan của đất nước đó là phát triển nền nông nghiệp, từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó: nhiệm vụ mang tính đột phá là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng là nhiệm vụ quan trọng, là khâu đột phá chiến lược.
91 trang |
Chia sẻ: Việt Cường | Ngày: 16/04/2025 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người lao động nông thôn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ THU THỦY
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ÐÀO TẠO NGHỀ
CHO NGƯỜI LAO ÐỘNG NÔNG THÔN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ THU THỦY
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ÐÀO TẠO NGHỀ
CHO NGƯỜI LAO ÐỘNG NÔNG THÔN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG HỒNG HIỆP
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn
Võ Thị Thu Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN......................................... 11
1.1. Một số khái niệm về đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Chính sách và
thực hiện chính sách đào tạo nghề cho Lao động nông thôn .......................... 11
1.2. Quy trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ... 19
1.3. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước và các yếu tố ảnh hưởng
đến thực hiện chính sách đào tạo nghề cho Lao động nông thôn ................... 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN PHÚ NINH,
TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................... 32
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
người lao động nông thôn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam ....................... 32
2.2. Thực trạng và kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người
LĐNT tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam ................................................. 37
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam ................................... 54
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM ............................................... 60
3.1. Mục tiêu hoàn thiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ... 61
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam ........................................ 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 LĐNT Lao động nông thôn
2 GDNN Giáo dục nghề nghiệp
3 LĐTB&XH Lao động - Thương binh và Xã hội
4 CNH-HĐH Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
5 NNL Nguồn nhân lực
6 ĐTN Đào tạo nghề
7 ĐCS Đảng cộng sản
8 CN Công nghiệp
9 NN Nông nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng Trang
bảng
Ðánh giá kết quả công tác ban hành triển khai thực hiện
2.1 các văn bản quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho LĐNT 38
trên địa bàn huyện
Sự phù hợp của chính sách đào tạo nghề cho LĐNT trên
2.2 43
địa bàn huyện.
Đánh giá công tác giải quyết việc làm cho LĐNT sau đào
2.3 44
tạo nghề cho LĐ trên địa bàn huyện.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI, nền kinh tế chuyển dần từ lao động chân tay sang lao động
trí óc, các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao thường có giá trị lớn, tiêu hao tài
nguyên thiên nhiên ít, sự ô nhiễm môi trường được hạn chế. Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020 được Đại hội Đảng Cộng sản
lần thứ 11 đã khẳng định: mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước Công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 thì giải pháp mang tính tính đột
phá đó là: phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và các chính sách
bảo đảm việc làm sau đào tạo.
Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ rất ấn
tượng trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và đã hoàn
thành một số mục tiêu, Việt Nam được đánh giá cao về xóa đói, giảm nghèo
và giải quyết việc làm cho người trong độ tuổi lao động. Trong giai đoạn hiện
nay; Đảng, Nhà nước ta xác định hướng phát triển bền vững, phù hợp với điều
kiện khách quan và chủ quan của đất nước đó là phát triển nền nông nghiệp,
từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó:
nhiệm vụ mang tính đột phá là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung
và đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng là nhiệm vụ quan trọng, là
khâu đột phá chiến lược.
Bên cạnh quá trình hội nhập kinh tế - quốc tế thì cơ hội việc làm, khó
khăn thách thức trong tìm kiếm việc làm sẽ luôn cùng nhau xuất hiện những
nghề mới ở các lĩnh vực, khu vực mới; quá trình công nghiệp hoá mạnh mẽ
như hiện nay sẽ xảy ra tình trạng mất việc làm ở một số lĩnh vực, khu vực
trong đó có khu vực nông thôn; một bộ phận người dân mất đất sản xuất dẫn
đến mất việc làm trong khi đó việc đào tạo nghề còn nhiều bất cập, chưa phù
1
hợp với nhu cầu của thị trường lao động; mạng lưới cơ sở Giáo dục nghề
nghiệp nói chung tuy đã phát triển nhưng chủ yếu tập trung ở khu vực thành
phố lớn, còn ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa thì cơ sở
Giáo dục nghề nghiệp rất ít, quy mô nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu học nghề của
đông đảo Lao động nông thôn; đội ngũ giáo viên dạy nghề cho lao động nông
thôn thiếu về số lượng, chưa đạt chuẩn về trình độ, chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm quản lý dạy nghề; chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn chưa
đáp ứng yêu cầu.
Mặc dù trong quá trình hội nhập kinh tế - quốc tế sẽ làm tăng cơ hội
việc làm tuy nhiên nông dân mất đất sản xuất sẽ dẫn đến mất việc làm, trong
khi đó công tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập, mạng lưới cơ sở dạy nghề chỉ
phát triển tập trung tại đô thị còn khu vực nông thôn, miền núi thì ít nên chưa
đáp ứng nhu cầu học nghề của lao động nông thôn nên lao động nông thôn
chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Thực trạng này, đòi hỏi phải
có chính sách phù hợp để nâng cao chất lượng lao động nông thôn và giải
quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị hóa.
Nghị quyết số 26 của Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông
nghiệp, Nông dân và Nông thôn đã nêu: “Giải quyết việc làm cho nông dân là
nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển KT - XH của
cả nước; bảo đảm hài hoà giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn và chính sách đảm bảo việc làm cho nông dân, nhất là
ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất...”[26,Trg12]. Trên tinh thần đó,
Chính phủ đã ra Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến năm 2020” và Hướng dẫn số: 664/LĐTBXH-TCDN ngày 09 tháng 3 năm
2010 của Bộ LĐ-TBXH về việc xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Đề
2
án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; và nhiều các văn
bản được ban hành, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn giai đoạn mới.
Huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam là một trong hai huyện nông thôn
mới của tỉnh, là vùng kinh tế động lực của tỉnh Quảng Nam. Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ huyện lần thứ XX xác định: không còn con đường nào khác là
phải xây dựng thành công mô hình nông thôn mới, phải tận dụng và khai thác
các thế mạnh, tiềm năng địa phương nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn. Trong giai đoạn 2010-
2015, huyện đã triển khai thực hiện thành công các chương trình, kế hoạch hỗ
trợ dạy nghề cho lao động nông thôn; các làng nghề truyền thống đã được
khôi phục và phát triển mạnh; nhiều mô hình đào tạo nghề gắn với giải quyết
việc làm đã được thực hiện hiệu quả góp phần tích cực trong việc ổn định
cuộc sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ
cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tích cực (giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp,
tăng tỷ lệ lao động phi nông nghiệp). Trong giai đoạn này, huyện đã tổ chức
đào tạo nghề đạt nhiều kết quả; năm 2010 tỷ lệ qua đào tạo nghề của huyện
đạt khoảng 35% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, đến năm 2015 tỷ lệ
qua đào tạo nghề của huyện đạt khoảng 55%, trong đó đào tạo sơ cấp nghề
(có cấp chứng chỉ) từ 3 tháng trở lên đạt 22% với tổng kinh phí hơn 800 triệu
đồng. Để đạt được kết quả trên, huyện Phú Ninh đã tập trung quyết liệt trong
công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện đã xem đào tạo nguồn nhân lực là một trong ba đột phá của huyện nhà.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vẫn còn một số tồn tại, hạn chế
như: ngành nghề đào tạo chưa sát với nhu cầu của người lao động dẫn đến kết
quả đào tạo chưa cao; việc đào tạo chưa căn cứ nhu cầu của doanh nghiệp tại
địa phương nên sau khi học nghề, nhiều lao động không tìm được việc làm ổn
3
định, một số nghề đã không còn phù hợp vẫn được đưa vào chương trình dạy
nghề cho lao động nông thôn; bên cạnh đó công tác tuyên truyền chưa đạt
hiệu quả như mong muốn, người lao động vẫn có tâm lý sợ học xong không
có việc làm.. những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện chính
sách, đặc biệt là vấn đề các chủ thể, doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào
tạo... Như vậy, nếu không có những giải pháp kịp thời để khắc phục những
bất cập này thì sẽ ảnh hưởng đến người lao động nông thôn, tác động tiêu cực
tới việc thực hiện chủ trương và chính sách, định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, của Đảng và Nhà nước.
Xuất phát từ những lý giải trên, gắn với thực tế tại địa phương đang
công tác tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người
lao động nông thôn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” là đề tài nghiên cứu
tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành chính sách công. Với
mong muốn của bản thân có thể đề xuất được các giải pháp chính sách phù
hợp với địa phương nhằm thực hiện chính sách này tại huyện Phú Ninh một
cách hiệu quả trên cơ sở những quan điểm, đường lối, chủ trương phát triển
Kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Đối với vấn đề liên quan đến công tác đào tạo nghề, mà cụ thể là chính
sách đào tạo nghề cho người lao động nông thôn là một trong những nội dung
có ý nghĩa trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Đây cũng là vấn đề thực tiễn lớn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời,
đúng đắn. Vậy, trong quá trình xây dựng và đổi mới vấn đề đào tạo nghề cho
lao động nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước kịp thời quan tâm và cụ thể
hóa bằng các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Từ khi có Nghị quyết số 26/NQ- TW ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội
4