Vệ sinh môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm không chỉ
ở phạm vi một quốc gia, một khu vực mà đang là vấn đề được quan tâm trên
phạm vi toàn cầu bởi tầm quan trọng của nó với sức khỏe con người [48].
Chính vì vậy trong các chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho người
dân ở vùng nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi ở nước ta hiện nay
thì vệ sinh môi trường nông thôn là một vấn đề được Đảng, Nhà nước quan
tâm đặc biệt và xác định là một bộ phận quan trọng trong chính sá ch phát
triển khu vực này. Trong nhiều năm qua, công tác này đã liên tục được đề cập
đến trong nhiều loại văn bản của Đảng, Nhà nước như nghị quyết Trung ương
VIII, IX, chiến lược toàn diện về tăng trưởng xóa đói, giảm nghèo, chiến lược
quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2000 - 2020
[5], nhằm tăng nhanh tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và có
nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hiện mục tiêu cải thiện điều kiện sống và sức khỏe
của người dân nông thôn, góp phần thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo
và từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt đối với các vùng
cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người [3].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội tại
khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người vẫn còn
rất thấp kém. Mức sống chung của người dân còn thấp, trình độ dân trí chưa
được nâng cao, phong tục tập quán còn lạc hậu, hệ thống đường giao thông
khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội còn t hiếu thốn. Bên cạnh
tình trạng bệnh tật nói chung, tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây
ra đang là vấn đề đáng lo ngại, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và sự phát
triển ở những khu vực khó khăn này [1], [2], [3], [8].
Huyện Đồng Hỷ thuộc tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, điều
kiện về kinh tế - văn hoá - xã hội chưa được tốt, những xã vùng cao, vùng
sâu, vùng đặc biệt khó khăn của huyện đang là trăn trở của các nhà quản lý.
Do địa bàn sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội
của người dân ở các bản vùng cao, vùng sâu còn rất thấp, nhất là hành vi về
vệ sinh môi trường [19], [20], [28]. Đây chính là lý do để chúng tôi xây dựng
đề tài: “Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của
người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường
của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường
của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
-- --
Dƣơng Xuân Hùng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ
VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ
VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA
-- --
Dƣơng Xuân Hùng
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ
VỆ SINH MÔI TRƢỜNG CỦA NGƢỜI DÂN Ở HAI XÃ
VÙNG SÂU HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành Y học dự phòng
Mã số: 60.72 .73
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS Đàm Khải Hoàn
THÁI NGUYÊN – 2008
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Tình hình vệ sinh môi trường. 3
1.1.1. Các khái niệm cơ bản. 3
1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường. 4
1.2. Những yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.
11
1.2.1 Một số khái niệm về kiến thức, thái độ, thực
hành
11
1.2.2 Một số vấn đề về thực trạng kiến thức, thái độ,
thực hành vệ sinh môi trường của người dân
13
1.2.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ,
thực hành về vệ sinh môi trường.
14
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 21
2.1 Đối tượng nghiên cứu 21
2.2 Địa điểm nghiên cứu 21
2.3 Thời gian nghiên cứu 22
2.4 Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu 23
2.4.2. Chỉ số nghiên cứu 23
2.4.3. Kỹ thuật thu thập thông tin và công cụ nghiên
cứu
27
2.4.4. Phương pháp khống chế sai số 28
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 28
2.4.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 29
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 30
3.1. Tình hình chung ở các điểm điều tra 30
3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh
môi trường của người dân tại các xã nghiên cứu
33
3.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh
môi trường của người dân ở các điểm điều tra
39
3.4 Một số kết quả nghiên cứu định tính. 43
Chƣơng 4: BÀN LUẬN 47
4.1. Tình hình kinh tế văn hoá xã hội ở các điểm
điều tra
47
4.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về vệ
sinh môi trường của người dân ở hai xã điều tra.
51
4.3. Mối liên quan giữa các yếu tố với thực hành
về vệ sinh môi trường của người dân
57
KẾT LUẬN 71
KHUYẾN NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC 79
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐBV : Biết đọc biết viết
BVTV : Bảo vệ thực vật
CS : Cộng sự
ĐTNNNTTS : Điều tra nông nghiệp nông thôn và thủy sản
HX : Hố xí
KAP : Knowledge Attitude Practice
(Kiến thức, thái độ, thực hành)
PTTT : Phương tiện truyền thông
TC : Tiêu chuẩn
TH : Tiểu học
THCS : Trung học cơ sở
UNEP : United Nations Evironment Programme
(Chương trình môi trường Liên hiệp quốc)
UNICEF : United Nation Children's Fund
(Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc)
VS : Vệ sinh
VSMT : Vệ sinh môi trường
WHO : World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Thứ tự Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Phân bố đối tượng điều tra theo tuổi. 30
Bảng 3.2 Thông tin về các đối tượng điều tra 31
Bảng 3.3 Nguồn truyền thông về vệ sinh môi trường 32
Bảng 3.4 Kết quả điều tra về nguồn nước 33
Bảng 3.5 Kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về
nguồn nước.
34
Bảng 3.6 Kết quả điều tra về quản lý phân 35
Bảng 3.7 KAP của người dân về quản lý phân. 35
Bảng 3.8 KAP của người dân về chuồng gia súc 36
Bảng 3.9 Thái độ và thực hành của người dân về hoá chất
bảo vệ thực vật.
37
Bảng 3.10 KAP của người dân về vệ sinh môi trường 38
Bảng 3.11 Mối liên quan giữa tình hình kinh tế
với thực hành vệ sinh môi trường của người dân
39
Bảng 3.12
Mối liên quan giữa phương tiện truyền thông với
thực hành vệ sinh môi trường của người dân
40
Bảng 3.13 Mối liên quan giữa trình độ học vấn của người dân
với thực hành về vệ sinh môi trường
40
Bảng 3.14 Mối liên quan giữa lứa tuổi của người dân với
thực hành về vệ sinh môi trường
41
Bảng 3.15 Mối liên quan giữa giới của người dân với thực
hành về vệ sinh môi trường
41
Bảng 3.16 Mối liên quan giữa thành phần dân tộc của người
dân với thực hành về vệ sinh môi trường
42
Bảng 3.17 Mối liên quan giữa kiến thức
của người dân với thực hành về vệ sinh môi tr-
ường
42
Bảng 3.18 Mối liên quan giữa thái độ của người dân với thực
hành về vệ sinh môi trường
43
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Thứ tự Tên biểu Trang
Biểu đồ 3.1 Phân bố đối tượng theo giới 30
Biểu đồ 3.2 Tình hình kinh tế của các hộ điều tra 31
Biểu đồ 3.3 Tình hình PTTT của các hộ điều tra 32
Biểu đồ 3.4 KAP của người dân về nguồn nước 34
Biểu đồ 3.5 KAP của người dân về quản lý phân 36
Biểu đồ 3.6 KAP của người dân về chuồng gia súc 37
Biểu đồ 3.7 KAP của người dân về hoá chất bảo vệ thực vật 38
Biểu đồ 3.8 KAP của người dân về vệ sinh môi trường 39
Biểu đồ 4.1 So sánh tỷ lệ hộ gia đình có hố xí và hố xí hợp
vệ sinh tại 2 xã nghiên cứu với một số nghiên
cứu và điều tra khác.
52
Biểu đồ 4.2 So sánh tỷ lệ hộ gia đình có nước sạch với một
số nghiên cứu khác.
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vệ sinh môi trường là một trong những vấn đề được quan tâm không chỉ
ở phạm vi một quốc gia, một khu vực mà đang là vấn đề được quan tâm trên
phạm vi toàn cầu bởi tầm quan trọng của nó với sức khỏe con người [48].
Chính vì vậy trong các chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho người
dân ở vùng nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi ở nước ta hiện nay
thì vệ sinh môi trường nông thôn là một vấn đề được Đảng, Nhà nước quan
tâm đặc biệt và xác định là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển khu vực này. Trong nhiều năm qua, công tác này đã liên tục được đề cập
đến trong nhiều loại văn bản của Đảng, Nhà nước như nghị quyết Trung ương
VIII, IX, chiến lược toàn diện về tăng trưởng xóa đói, giảm nghèo, chiến lược
quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2000 - 2020
[5], nhằm tăng nhanh tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và có
nhà tiêu hợp vệ sinh, thực hiện mục tiêu cải thiện điều kiện sống và sức khỏe
của người dân nông thôn, góp phần thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo
và từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đặc biệt đối với các vùng
cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người [3].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội tại
khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người vẫn còn
rất thấp kém. Mức sống chung của người dân còn thấp, trình độ dân trí chưa
được nâng cao, phong tục tập quán còn lạc hậu, hệ thống đường giao thông
khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội còn thiếu thốn. Bên cạnh
tình trạng bệnh tật nói chung, tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây
ra đang là vấn đề đáng lo ngại, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và sự phát
triển ở những khu vực khó khăn này [1], [2], [3], [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Huyện Đồng Hỷ thuộc tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, điều
kiện về kinh tế - văn hoá - xã hội chưa được tốt, những xã vùng cao, vùng
sâu, vùng đặc biệt khó khăn của huyện đang là trăn trở của các nhà quản lý.
Do địa bàn sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội
của người dân ở các bản vùng cao, vùng sâu còn rất thấp, nhất là hành vi về
vệ sinh môi trường [19], [20], [28]. Đây chính là lý do để chúng tôi xây dựng
đề tài: “Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường của
người dân ở hai xã vùng sâu huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành vệ sinh môi trường
của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến thực hành vệ sinh môi trường
của người dân ở hai xã vùng sâu thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình hình vệ sinh môi trƣờng
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Khái niệm môi trường
- Theo nghĩa rộng: Là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng
đến một vật thể hay một sự kiện [42].
- Đối với con người: Môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý,
hoá học, sinh học, kinh tế, xã hội bao quanh và ảnh hưởng đến sự sống, sự
phát triển của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Môi trường bao gồm môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội.
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng,
bức xạ, nồng độ các chất hoá học có trong đất, nước, không khí, các vi sinh
vật....
Môi trường xã hội bao gồm vấn đề chính trị, đạo đức, tôn giáo, văn
hoá, pháp luật, phong tục, tập quán, văn hoá ứng xử, chính sách...
Ngày nay, môi trường hài hoà với sức khoẻ gắn liền với việc sử dụng
hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường phát triển bền vững, đảm bảo gắn chặt
phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và phát triển văn hoá [10].
*Khái niệm về sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế Thế giới: “ Sức khoẻ là
trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ
đơn thuần là không có bệnh hay tật” [23].
Theo định nghĩa đó sức khoẻ bao gồm ba khía cạnh: Sức khoẻ về thân
thể, sức khoẻ về tinh thần, sức khoẻ về xã hội. Cả ba mặt này làm thành một
thể thống nhất tác động qua lại lẫn nhau không thể coi nhẹ một mặt nào. Một
tinh thần khoẻ mạnh chỉ có được trong một cơ thể khoẻ mạnh và trong một xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
hội lành mạnh. Trạng thái sức khoẻ con người là tiêu chuẩn tổng hợp nhất của
tình trạng môi trường.
1.1.2. Tình hình vệ sinh môi trường
1.1.2.1. Tình hình chung: Theo báo cáo Y tế Thế giới năm 2002, nước và hố
xí không hợp vệ sinh đứng thứ 10 về các yếu tố đóng góp vào gánh nặng bệnh
tật trong các nước đang phát triển như nước ta [9], [48].
* Về nguồn nước: Nước phục vụ cho ăn uống sinh hoạt của con người và
là nhu cầu không thể thiếu được. Đồng thời nước cũng là môi trường trung
gian truyền bệnh cho người, đặc biệt là các bệnh đường tiêu hoá. Theo Tổ
chức y tế thế giới (WHO) và Quĩ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): Nước
sạch là nước máy, giếng khoan, giếng khơi, nước mưa, nước suối được bảo vệ
[9]. Với định nghĩa như vậy, báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia 2001-2002
đã so sánh tỷ lệ người thành thị và nông thôn được tiếp cận với nước sạch ở
Việt Nam so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á: Ở thành thị nước
ta có 95% dân số được tiếp cận với nước sạch, tỷ lệ này ở Thái Lan cũng là
95%, ở Philippin 92%, Indonesia 90% và Campuchia là 45%. Còn khu vực
nông thôn, tỷ lệ dân số được tiếp cận với nước sạch ở nước ta là 71%, ở Thái
Lan là 81%, Philippin 79%, Indonesia 69% và Campuchia là 26% [9].
Như vậy ở nước ta, tỷ lệ người ở thành thị tiếp cận với nước sạch khá
cao (95%), ngang bằng với Thái Lan và cao hơn Philippin và Indonesia.
Nhưng ở nông thôn, tỷ lệ này thấp hơn Thái Lan và Indonesia. Trên thế giới,
theo báo cáo của UNEP về tình hình thực hiện thập kỷ cung cấp nước và vệ
sinh môi trường từ năm 1990 đến năm 2000, ở thời điểm năm 2000 có 82%
dân số thế giới được cung cấp nước sạch còn 18% không được cung cấp nước
sạch hoặc trong tình trạng thiếu sinh hoạt và ăn uống, trong số đó 63% thuộc
Châu Á và 28% ở Châu Phi, trong khi tỷ lệ này tương ứng ở Châu Mỹ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Châu Âu là 7% và 2%. Điều đó cho thấy các nước đang phát triển và kém
phát triển thì tỷ lệ dân số không được cung cấp nước sạch rất cao [50].
Theo qui định của Bộ Y tế nước ta: nước máy, nước mưa, nước giếng
khoan, nước máng lần không có nguồn ô nhiễm trong vòng 7 m tính từ nguồn
nước được coi là nước sạch. Theo qui định này thì hiện nay 80% dân số nước
ta đang ăn uống bằng nguồn nước sạch. Tuy nhiên ở nước ta, nước giếng
khoan, nước máng lần, nước giếng khơi nếu sử dụng để ăn uống ngay mà
không qua xử lý sẽ không đảm bảo vệ sinh và không coi là nguồn nước sạch
được [9].
Theo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002: tỷ lệ người dân
được sử dụng một số nguồn nước cho ăn uống và sinh hoạt ở nước ta năm
1992 như sau: 20% dân số dùng nước máy, 12% dùng nước giếng khoan, 4%
dùng nước mưa, 11% dùng nước giếng khơi, 20% dùng nước sông hồ [9].
Năm 1997 tỷ lệ này tương ứng là 30,6%, 15%, 13%, 10% và 12%. Năm 2001
tỷ lệ dân số sử dụng các nguồn nước trên tương ứng là 45,9%, 16%, 21%,
14% và 10% [9].
Kết quả trên cho thấy, ở nước ta vào thời điểm năm 2001, tỷ lệ số dân
sử dụng nước máy cao nhất với 45,9%; 16% dân số sử dụng nguồn nước
giếng khoan và 14% sử dụng nước giếng khơi. Kết quả trên cũng cho thấy, tỷ
lệ số hộ dân sử dụng nguồn nước sạch như nước máy tăng nhanh qua các năm
và tỷ lệ dân số sử dụng nguồn nước sông hồ có giảm đi. Nhưng theo báo cáo
của Bộ y tế chỉ 1/3 dân số xử lý nước trước khi sử dụng. Hơn 1/3 dân số dùng
nước giếng khơi và nước mưa để ăn uống nhưng trong đó chỉ có 2,9% dân số
sử dụng nước có xử lý, còn 23,4% dùng nước không xử lý và 8,5% dùng nước
gần nguồn ô nhiễm [9].
Theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 8,28% số hộ nông thôn dùng nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
máy để nấu ăn (Trong đó xã miền núi là 3,03% số hộ, xã vùng cao là 2,60%).
Tỷ lệ hộ dân dùng nước giếng khoan là 27,9%, giếng xây là 26,79%. Tuy
nhiên tỷ lệ hộ dùng các loại nước giếng này đã qua xử lý tương ứng là 6,87%
và 1,08%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước sông, hồ, ao, nước suối để nấu ăn trong cả
nước là 13,24% trong đó miền núi, vùng cao có tỷ lệ là 11,96% [40]. Như
vậy, ở khu vực nông thôn tỷ lệ số hộ được tiếp cận với nước sạch thấp hơn
đáng kể so với các hộ dân ở khu vực thành thị.
Một số nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch
hầu hết các vùng, miền ở nước ta còn thấp. Tỷ lệ chung vào năm 2002 khoảng
50%. Tỷ lệ hộ gia đình dùng nước được coi là sạch bao gồm giếng khoan và
nước máy còn rất thấp (6,8% và 6,6%). Hơn một nửa (53,2%) số hộ gia đình
trong các điều tra sử dụng nước giếng đào cho ăn uống và sinh hoạt, ở vùng
duyên hải miền Trung tỷ lệ này là 99,5%. Đa số (66,0%) các hộ gia đình ở
đồng bằng sông Cửu Long dùng nguồn nước từ sông kênh rạch. Tỷ lệ chung ở
7 vùng sinh thái được điều tra có số hộ dùng nguồn nước sạch là 15,5%. Nước
từ các nguồn trên đều là nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ và
vi sinh vật, có nhiều nguy cơ phát triển các bệnh dịch đường tiêu hoá khi sử
dụng. Do vậy, vấn đề nguồn nước dùng cho ăn uống rất đáng được quan tâm
giải quyết ở các địa phương, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long [4],
[5], [7].
*Về sử dụng hố xí
Phân người và gia súc là yếu tố truyền nhiễm chủ yếu của nhiều bệnh
nhiễm trùng, ký sinh trùng, đặc biệt là các bệnh đường ruột. Sử dụng các hố
xí không hợp vệ sinh hoặc không có hố xí gây ô nhiễm môi trường tạo nguy
cơ mắc bệnh hệ tiêu hóa như tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, tả, thương hàn, viêm
gan A, giun sán..., các bệnh này góp phần gây suy dinh dưỡng và thiếu máu
do thiếu sắt, làm kém sự phát triển thể chất và tăng nguy cơ tử vong ở trẻ em
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
và làm giảm sức khỏe cho người lớn cũng như cộng đồng dân cư. Người chết
bởi những bệnh liên quan đến tiêu chảy chủ yếu là trẻ em [9].
Theo báo cáo của tổ chức UNEP vào thời điểm năm 2002, thế giới có
2,4 tỷ người không được tiếp cận với các công trình vệ sinh, trong đó có 1,3
tỷ người ở Ấn Độ và Trung Quốc. Trong tổng số những người không được
tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh thì 80% là ở Châu Á, 13% là Châu Phi, trong
khi chỉ có 5% dân số Châu Mỹ Latinh và 2% dân số Châu Âu không được
tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh [50]. Như vậy khu vực các nước đang và chậm
phát triển tỷ lệ số người không được tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh rất cao, Rõ
ràng đói nghèo đang đặt ra nhiều vấn đề sức khỏe đối với người dân ở khu
vực này, trong đó có vấn đề vệ sinh môi trường.
Cũng theo UNEP, tình hình ô nhiễm môi trường do chất thải của con
người tỷ lệ nghịch với tỷ lệ số hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, điều đó có
nghĩa là tỷ lệ số hộ có hố xí cao chưa hẳn là nguy cơ ô nhiễm môi trường từ
chất thải của con người đã giảm đi, mà quan trọng nó đánh giá bằng số hộ dân
cư có hố xí hợp vệ sinh. Tức là chất thải của con người phải được sử lý trước
khi đổ vào môi trường. Ở rất nhiều nơi trên thế giới hiện nay, nhất là các nước
đang phát triển và chậm phát triển, mối liên quan giữa hệ thống vệ sinh và
chất thải của con nguời đang là vấn đề cần lưu tâm [50].
Theo định nghĩa quốc tế, hố xí hợp vệ sinh bao gồm hố xí nối với cống
thoát, có bể phốt, thấm dội nước, hố xí một ngăn hoặc hai ngăn. Còn hố xí
không hợp vệ sinh là xô được đổ hàng ngày, hố xí chung hoặc hố xí công
cộng, hố xí lộ thiên [9]. Theo định nghĩa này, kết quả điều tra y tế quốc gia
năm 2001-2002 cho thấy tỷ lệ người thành thị ở nước ta có hố xí hợp vệ sinh
là 81%, vẫn thấp so với Thái Lan (98%) và Philippin (97%), nhưng cao hơn
so với Indonesia (64%) và Campuchia (62%). Còn ở nông thôn, tỷ lệ người sử
dụng hố xí hợp vệ sinh ở nước ta rất thấp (39%), thấp hơn nhiều so với Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Lan (97%), thấp hơn Philippin và Indonesia (64% và 43%), chỉ cao hơn
Campuchia (5%). Điều đó cho thấy thực trạng vấn đề hố xí hợp vệ sinh ở
nông thôn Việt Nam đang đặt ra các yêu cầu trong hoạch định chính sách phát
triển của khu vực này [9].
Cũng theo báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 cơ cấu
sử dụng các loại hố xí ở nước ta như sau: Năm 1992 có 9% dân số sử dụng hố
xí tự hoại, bán tự hoại và năm 2002 tỷ lệ này đã tăng lên là 26%. Với loại hố
xí hai ngăn và hố xí thấm dội nước thì năm 1992 có 7% dân số sử dụng và
năm 2002 là 20%. Loại hố xí đơn giản được người dân sử dụng nhiều nhất
vào những năm 1997 với 37% và đến năm 2002 vẫn còn 32% người dân sử
dụng. Cho đến năm 2002 thì vẫn còn 14% dân số sử dụng hố xí tập thể. Tỷ lệ
số dân không có hố xí đã giảm từ 26% vào năm 1992 xuống 13% vào năm
2002 [9]. Điều đó cho thấy tỷ lệ hố xí hợp vệ sinh tăng dần qua các năm, nhất
là tỷ lệ số dân sử dụng hố xí tự hoại và bán tự hoại, tuy nhiên tốc độ tăng còn
chậm. Tỷ lệ dân số không sử dụng hố xí cũng giảm dần, nhưng tỷ lệ dân số sử
dụng hố xí không hợp vệ sinh vẫn còn cao.
Còn theo kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm
2006 của Tổng cục thống kê thì cả nước có 16,91% số hộ dùng hố xí tự hoại,
5,77% dùng hố xí thấm dội nước, 22,6% sử dụng hố xí 2 ngăn, 1,68% dùng
hố xí chìm có ống thông hơi, 41,81% dùng hố xí khác và 11,18% số hộ không
có hố xí. Trong đó khu vực các khu vực đồng bằng sông Cửu Long có số hố
xí không hợp vệ sinh và không có hố xí cao nhất (81,58%), khu vực Tây Bắc
có tới 58,65 số hộ có hố xí không hợp vệ sinh và 27,18 số hộ không có hố xí,
tiếp đến là khu vực Tây nguyên tương ứng là 45,58 và 30%, khu vực Đông
Bắc: 40,28 và 14,56% [40].
Như vậy, ở nước ta vấn đề hố xí hợp vệ sinh còn rất nhiều yếu kém. Hoạt
động vệ sinh môi trường còn chưa được chú ý nhất là ở các vùng nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Nguy cơ môi trường bị ô nhiễm do phân người khá cao. Số hộ gia đình có hố
xí được xem là hợp vệ sinh gồm hố xí dội nước và 2 ngăn chiếm một tỷ lệ
thấp. Nơi có tỷ lệ loại hố xí này cao nhất ở đồng bằng sông Hồng (36,9% và
48%), thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (7,0% và 2,4%). Loại hố xí
thùng, một ngăn rất phổ biến ở các vùng với tỷ lệ chung 40,6%, cao nhất ở
vùng Bắc Trung Bộ (68,3%) và thấp nhất ở duyên hải miền Trung (13,0%). Ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long loại hố xí thường gặp là hố xí cầu chiếm tỷ lệ
46,4% [4], [5], [6].
1.1.2.2. Tình hình vệ sinh môi trường ở miền núi phía Bắc.
Miền núi phía Bắc nước ta là một khu vực kinh tế, chính trị, văn hoá
quan trọng nhưng lại là một khu vực còn nghèo nàn về kinh tế và vẫn còn
nhiều phong tục tập quán lạc hậu. Đây là nơi cư trú đa