Luận văn Từ láy trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng

1. Lý do chọn đề tài 1. Láy là một phương thức tạo từ đặc sắc của tiếng Việt. Đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình vị gốc theo những quy tắc nhất định. Từ láy là sự hòa phối ngữ âm giữa các yếu tố tương ứng của các âm tiết; đó là sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa. Vì thế, nội dung ngữ nghĩa được chứa đựng trong mỗi từ láy, bên cạnh những đặc điểm vốn có như bao từ khác thì nó còn có những đặc điểm rất riêng.2. Vũ Trọng Phụng được biết đến là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Vũ Trọng Phụng là tác giả có văn nghiệp khá đồ sộ. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi (27 năm), nhưng trong quãng thời gian cầm bút, ông đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc ở nhiều thể loại khác nhau, mà nổi bậthơn cả là tiểu thuyết và phóng sự. Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: “Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy không giết quá một con muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh”. 3. “Số đỏ” là tiểu thuyết tập trung đề cập và phê phán tầng lớp tiểu tư sản Hà Thành đầu thế kỉ XX. Từ những bước tiến đáng kinh ngạc của Xuân Tóc Đỏ - một thằng lưu manh đầu đường, câu chuyện đã chuyển hướng nói về “tấn trò đời” của những diễn viên đại tài, những tri thức của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, như bà Phó Đoan, cụ cố Hồng, cô Tuyết, nhà mỹ thuật TYPN, ông đốc tờ Trực Ngôn,… Họ diễn trong cuộc sống, diễn với những người thân, và diễn cả với chính bản thân mình. Họ nói chuyện với nhau thật văn hoa “một cách liến thoắng, trôi chảy như nước suối, sốt sắng như những người không thành thực chút nào cả”, mà người nghe thì “tuy chẳng hiểu cái quái gì, nhưng cũng thấy êm tai, và nhất là sung sướng.”

pdf84 trang | Chia sẻ: Việt Cường | Ngày: 15/04/2025 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Từ láy trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––– Khambang THIPPASONE TỪ LÁY TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã ngành: 8.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ THÁI NGUYÊN- 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thu Hà và sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020 Tác giả luận văn Khambang THIPPASONE Xác nhận Xác nhận của khoa chuyên môn của người hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Thị Thu Hà LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thu Hà - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cán bộ, giảng viên khoa Ngữ văn, phòng Đào tạo trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu của Hội đồng khoa học giúp em hoàn thiện hơn luận văn. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020 Tác giả luận văn Khambang THIPPASONE MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1. Láy là một phương thức tạo từ đặc sắc của tiếng Việt. Đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình vị gốc theo những quy tắc nhất định. Từ láy là sự hòa phối ngữ âm giữa các yếu tố tương ứng của các âm tiết; đó là sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hóa. Vì thế, nội dung ngữ nghĩa được chứa đựng trong mỗi từ láy, bên cạnh những đặc điểm vốn có như bao từ khác thì nó còn có những đặc điểm rất riêng. 2. Vũ Trọng Phụng được biết đến là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Vũ Trọng Phụng là tác giả có văn nghiệp khá đồ sộ. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi (27 năm), nhưng trong quãng thời gian cầm bút, ông đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc ở nhiều thể loại khác nhau, mà nổi bật hơn cả là tiểu thuyết và phóng sự. Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: “Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy không giết quá một con muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh”. 3. “Số đỏ” là tiểu thuyết tập trung đề cập và phê phán tầng lớp tiểu tư sản Hà Thành đầu thế kỉ XX. Từ những bước tiến đáng kinh ngạc của Xuân Tóc Đỏ - một thằng lưu manh đầu đường, câu chuyện đã chuyển hướng nói về “tấn trò đời” của những diễn viên đại tài, những tri thức của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, như bà Phó Đoan, cụ cố Hồng, cô Tuyết, nhà mỹ thuật TYPN, ông đốc tờ Trực Ngôn, Họ diễn trong cuộc sống, diễn với những người thân, và diễn cả với chính bản thân mình. Họ nói chuyện với nhau thật văn hoa “một cách liến thoắng, trôi chảy như nước suối, sốt sắng như những người không thành thực chút nào cả”, mà người nghe thì “tuy chẳng hiểu cái quái gì, nhưng cũng thấy êm tai, và nhất là sung sướng.” Bấy nhiêu con người góp mặt trong một bức tranh hết sức 6 chân thật về cuộc sống của lớp thị dân Việt Nam, quay cuồng trong cái công cuộc "cách tân", "âu hóa". Vì những lí do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Từ láy trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng” để tìm hiểu sâu hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn về sự phát triển của ngôn ngữ văn học, về sự phong phú, đa dạng và khả năng biểu đạt tinh tế, chính xác, linh hoạt của các lớp từ láy tiếng Việt. 2. Lịch sử vấn đề Trong ngôn ngữ học, nghiên cứu về từ láy phải kể đến một số nhà ngôn ngữ học như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đái Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao Cương, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản, Nguyễn Thị Hai, Hữu Đạt, Nguyễn Đức Tồn Những công trình của các tác giả đã chú ý đến đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa, giá trị biểu trưng, giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh, giá trị biểu cảm của từ láy. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: các sách nghiên cứu về tiếng Việt trong đó có từ láy, những chuyên luận về từ láy các tác phẩm là các bài nghiên cứu trên các tạp chí. Có thể kể đến như: Từ láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành Nxb Khoa học Xã hội, 1985. Về một hiện tượng láy trong tiếng Việt của Hoàng Văn Hành, đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 2, 1979. Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại của Hồ Lê, Nxb Khoa học Xã hội, 1976. Về từ lấp láy của văn học thế kỷ XVII đăng trong cuốn “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ”, tập 2 Nxb Khoa học Xã hội 1981, Vấn đề từ láy trong tiếng Việt của Hà Quang Năng in trong Từ láy những vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb Khoa học Xã hội, 1998 Cũng có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề từ láy trong các tác phẩm văn học Việt Nam như: “Hệ thống từ láy tiếng Việt trong một số khúc ngâm thế kỷ XIX” luận văn thạc sĩ ngữ văn của Nguyễn Thị Hường Đại học Sư phạm Hà Nội (2004), “Từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình 7 Chiểu” - luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học của Hoàng Thị Lan (Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2009) Nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng và những tác phẩm của ông, chúng ta có thể kể đến một số công trình như “Đánh giá lại Số đỏ” - Phan Cự Đệ, năm 1989; “Tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng” của Hà Bình Trị trên Tạp chí Văn học số 3, 1990; “Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ” của Hoàng Ngọc Hiến, 1990; “Nhân vật Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng” bài của Hà Minh Đức, 1998; “Cái nhìn bi quan mang nghĩa cảnh tỉnh” của Vương Trí Nhàn, 1999; “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt Nam” của Peter Zinoman, 2002, Vũ Trọng Phụng - Về tác gia và tác phẩm (NXB Giáo dục, 2003); Mấy suy nghĩ từ cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng của Nguyễn Đăng Mạnh (Tạp chí Sông Hương, số 250, tháng 12 năm 2009), “Số đỏ” và “Kỹ nghệ lấy Tây” của Vũ Trọng Phụng: Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm sân khấu, luận văn thạc sĩ của Phạm Thụy Ngọc Quỳnh, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012; Thi pháp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Nguyễn Thanh (NXB Văn học, 2013); Tiếp cận thế giới nhân vật Vũ Trọng Phụng từ góc nhìn phân tâm học của Nguyễn Thị Thương, luận văn thạc sĩ ngành Văn học Việt Nam hiện đại, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2014; Vũ Trọng Phụng và những tác phẩm vượt thời gian (NXB Văn học, 2019) Qua các công trình tiêu biểu nói trên cũng như một số chuyên luận khảo cứu sau đó cho chúng ta thấy việc nghiên cứu Vũ Trọng Phụng đã ngày càng được mở rộng và đào sâu trên cơ sở tư liệu về nhiều mặt. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về từ láy trong tác phẩm Số đỏ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của từ láy trong tác phẩm Số đỏ trên các phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa, ngữ pháp; đồng thời phân 8 tích được giá trị, vai trò của từ láy trong tác phẩm Số đỏ trong việc miêu tả ngoại hình và tính cách nhân vật. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau đây: - Khảo sát, thống kê, phân loại từ láy Vũ Trọng Phụng sử dụng trong tác phẩm Số đỏ. - Nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của từ láy trong Số đỏ trên các phương diện cấu tạo, ngữ nghĩa và ngữ pháp. - Phân tích vai trò, giá trị, tầm quan trọng của từ láy mà tác giả Vũ Trọng Phụng đã sử dụng để xây dựng, khắc họa hình tượng của các nhân vật trong tác phẩm Số đỏ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống từ láy và việc sử dụng từ láy trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu từ láy trên các phương diện cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ pháp và giá trị sử dụng của chúng trong tác phẩm Số đỏ. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Luận văn nghiên cứu từ láy trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng nhằm làm sáng tỏ những đặc trưng cấu tạo, ngữ nghĩa của từ láy. Những kết quả nghiên cứu có thể góp phần cung cấp những gợi ý cho việc tiếp cận tác phẩm từ góc độ ngôn ngữ học. Những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng có thể được làm sáng tỏ thông qua cách sử dụng, khai thác chất liệu từ láy trong tác phẩm. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: 9 6.1. Phương pháp miêu tả Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để miêu tả những đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa của các nhóm từ láy xuất hiện trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. 6.2. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được chúng tôi dùng để phân tích giá trị từ láy trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các thủ pháp thống kê, phân loại nhằm khảo sát, thống kê và phân loại từ láy được sử dụng trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Đặc điểm của từ láy trong Số đỏ Chương 3. Vai trò của từ láy trong Số đỏ 10 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Những vấn đề chung về từ tiếng Việt 1.1.1. Khái niệm “Từ là đơn vị cơ bản, đơn vị trung tâm của ngôn ngữ” [13]. Từ là loại vật liệu cơ bản nhưng đặc biệt, thiếu nó thì ngôn ngữ không thể tồn tại. Nó được sử dụng để cấu tạo nên câu, câu được sử dụng trong giao tiếp và tư duy. Nói cách khác thì không có từ sẽ không có các đơn vị ngôn ngữ. Cho tới nay, có khoảng trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Có thể kể đến một số định nghĩa về từ như sau: Theo Nguyễn Thiện Giáp, “từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền” [16, 69]. Trong cuốn “Vấn đề của cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại”, Hồ Lê cho rằng “Từ là đơn vị ngôn ngữ có chức năng định danh phi liên kết hiện thực, hoặc mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có tính vững chức về cấu tạo và tính nhất thể về ý nghĩa” [27]. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” đã nêu: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu” [13]. Nguyễn Kim Thản trong cuốn “Nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt” cho rằng “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách khỏi các đơn vị khác của lời nói để sử dụng một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa và chức năng ngữ pháp” [31]. Trong đề tài này, chúng tôi lựa chọn định nghĩa về từ tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở nghiên cứu. Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa về từ trong tiếng Việt như sau: “Từ của tiếng việt là một hoặc một số âm tiết cố đình, 11 bất biết về hình thức ngữ âm theo các quan hệ hình thái học(như quan hệ về số,về giống )và cú pháp trong câu,nằm trong một kiểu cấu tạo nhất định, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, úng với những nghĩa nhất định,sẵn có đối với mọi thành viên trong xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ thống tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [11; 29]. 1.1.2. Các phương thức cấu tạo từ “Phương thức cấu tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị để cho ta các từ” [11; 28]. Theo Đỗ Hữu Châu, tiếng Việt sử dụng ba phương thức tạo từ: từ hóa hình vị, phương thức ghép, phương thức láy. Từ hóa hình vị: Phương thức từ hóa hình vị là phương thức tác động vào bản thân một hình vị, làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ, biến hình vị thành từ mà không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Từ đơn trong tiếng Việt được tạo thành nhờ phương thức này. Ví dụ các từ đơn: bàn, ghế, áo, quần, nhà, cửa được tạo từ hình vị: bàn, ghế, áo, quần, nhà, cửa Sau này Hoàng Văn Hành đã tiếp thu ý kiến của Đỗ Hữu Châu và định nghĩa: “Từ hoá hình vị là quá trình cấu tạo từ mà trong đó hình vị được cấp những đặc trưng nào đó về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp theo những quy tắc nhất định để thành từ đơn”. Phương thức ghép: Phương thức ghép là phương thức tác động vào hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa, kết hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới (mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa như một từ). Từ được tạo ra từ phương thức này được gọi là từ ghép. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa mà người ta chia thành từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập. Ví dụ: Phương thức ghép tác động vào các hình vị “xe” và hình vị “máy” cho từ “xe máy”, tác động vào các hình vị “lái” và hình vị “xe” cho từ “lái xe”, Biểu đồ của phương thức ghép là: 12
Tài liệu liên quan