Luận văn Vận dụng quan điểm loại thể vào dạy học hia tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thânh và "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyẽn Minh Châu ở trường THPT

Hai mươi năm qua, kểtừkhi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, sâu rộng, đất nước ta đã bước sang một thời kỳphát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Thành tựu to lớn của chặng đường vừa qua đã đưa tình hình kinh tế- xã hội thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng, tạo điều kiện đểnền chính trị ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Từcơsở đó, toàn Đảng, toàn dân dốc sức thực thi chiến lược xây dựng, phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có thểnói, hiện nay trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, vịthếcủa Việt Nam được chú ý, nhân dân ta càng vững tin tiến theo xu thếhội nhập, giao lưu mởrộng, tạo ra triển vọng tươi sáng đểbước vào kỷnguyên mới cùng nhân loại. Tuy nhiên, cho đến nay nền kinh tếnước ta, do điều kiện lịch sửvẫn đang trong tình trạng kém phát triển, sức sản xuất còn lạc hậu, thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Nhìn chung,mức tăng trưởng kinh tếchưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, năng lực cạnh tranh kinh tế thịtrường chưa đủmạnh, cơcấu kinh tếdịch chuyển chậm. Những hạn chế, khó khăn nói trên đã ảnh hưởng tới sựphát triển của văn hóa – giáo dục, mặc dù trong hai mươi năm đổi mới chúng ta có tiến bộ

pdf140 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1797 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quan điểm loại thể vào dạy học hia tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thânh và "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyẽn Minh Châu ở trường THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH ÑINH HOÀ MYÕ NGOÏC Chuyeân ngaønh : Lyù luaän vaø phöông phaùp daïy hoïc moân vaên Maõ soá : 60 14 10 LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ GIAÙO DUÏC HOÏC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC TS. NGUYEÃN ÑÖÙC AÂN Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2007 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tình hình giáo dục trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Hai mươi năm qua, kể từ khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, sâu rộng, đất nước ta đã bước sang một thời kỳ phát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Thành tựu to lớn của chặng đường vừa qua đã đưa tình hình kinh tế - xã hội thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng, tạo điều kiện để nền chính trị ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Từ cơ sở đó, toàn Đảng, toàn dân dốc sức thực thi chiến lược xây dựng, phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có thể nói, hiện nay trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, vị thế của Việt Nam được chú ý, nhân dân ta càng vững tin tiến theo xu thế hội nhập, giao lưu mở rộng, tạo ra triển vọng tươi sáng để bước vào kỷ nguyên mới cùng nhân loại. Tuy nhiên, cho đến nay nền kinh tế nước ta, do điều kiện lịch sử vẫn đang trong tình trạng kém phát triển, sức sản xuất còn lạc hậu, thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Nhìn chung, mức tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, năng lực cạnh tranh kinh tế thị trường chưa đủ mạnh, cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm. Những hạn chế, khó khăn nói trên đã ảnh hưởng tới sự phát triển của văn hóa – giáo dục, mặc dù trong hai mươi năm đổi mới chúng ta có tiến bộ đáng kể trong việc củng cố, xây dựng nhà trường theo hướng xã hội hóa. Sự phát triển của công cuộc xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới hiện nay có sức tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống. Văn hóa giáo dục cũng chịu ảnh hưởng của quy luật đó. Bởi thế, trong hơn hai thập niên vừa qua, giáo dục luôn được đặt vào vị trí chiến lược quan trọng, được xác định là một lực lượng sản xuất của xã hội góp phần đào tạo con người – tức là nhân tố quyết định tới sự thành công của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Ngày nay, khái niệm nền kinh tế tri thức đã trở thành một động lực không thể thiếu trong các yếu tố hợp thành của cơ cấu kinh tế xã hội. Vì lẽ đó, liên tiếp trong các nhiệm kỳ của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, VIII, IX lần lượt ra đời các nghị quyết về văn hóa giáo dục; giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu. Nhờ sự đổi mới tư duy lí luận nói đó, thời gian qua hệ thống giáo dục của nước ta có sự chuyển biến sâu rộng: “ Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường. Quy mô đào tạo mở rộng, nhất là ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân trí ngày càng cao”56. Trước yêu cầu to lớn của xã hội, nhà trường ngày càng nhận thức rõ sứ mệnh cao quý của mình trong chiến lược xây dựng con người, đã nổ lực vượt qua khuôn khổ xơ cứng, trì trệ của thời bao cấp kéo dài. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hệ thống giáo dục nước ta cần phải vươn lên nhiều hơn nữa, với sự năng động và quyết tâm cao hơn để thích ứng kịp thời với thực tiễn cuộc sống xã hội vốn đa dạng và luôn chuyển động, biến đổi mau lẹ. Có thể nhận ra những mặt non kém, những lúng túng của ngành giáo dục khi cuộc cải cách giáo dục lần III diễn ra khá dài nhưng cho đến nay dư luận xã hội vẫn băn khoăn, lo lắng về chất lượng đào tạo của nhà trường. Nhiều vấn đề liên quan đến nhà trường đang là đề tài nóng hổi trên các phương tiện thông tin và chính tại diễn đàn của các kỳ họp Quốc hội. Rõ ràng, công tác giáo dục và đào tạo là một điểm nóng “trong một số vấn đề văn hóa xã hội bức xúc và gay gắt” hiện nay. Để khắc phục hạn chế và bất cập nói trên, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Công tác giáo dục đào tạo cần có sự đổi mới toàn diện”. Trước hết phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa”. Theo yêu cầu cấp bách nói đó, chúng ta phải chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở – mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo suốt đời. Hệ thống giáo dục cần nhanh chóng điều chỉnh, khắc phục tình trạng quá tải, thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục, sách giáo khoa phổ thông có tính khoa học, đại chúng, phổ cập; phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Giáo dục hiện nay chú trọng đến việc bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ GV ở tất cả các cấp học, bậc học; hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Để nâng cao chất lượng dạy và học, bộ giáo dục chủ trương cải tiến nội dung, phương pháp thi cử nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học tập ; khắc phục những mặt yếu kém và tiêu cực trong giáo dục. Hòa nhập với xu thế chung của thời đại, chúng ta tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo; tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới; có cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư hoặc liên kết đào tạo. Trước tình hình và yêu cầu đó, giáo dục phải có bước chuyển biến cụ thể, phù hợp. Yêu cầu của nhà trường ngày nay không chỉ là truyền thụ kiến thức khoa học mà quan trọng hơn phải hình thành cho HS thái độ, khả năng cần thiết để đảm bảo cho việc nắm vững kiến thức và sử dụng kiến thức đó. Từ đấy, việc dạy học ở nhà trường đã thay đổi toàn diện từ mục đích, nội dung đến phương pháp đào tạo. Chúng ta chủ trương dạy học theo hướng tích cực hóa người học, chuyển từ mô phỏng ứng dụng sang hướng tìm tòi, nghiên cứu lí luận, từ lối truyền thụ kinh nghiệm sang việc xây dựng hệ thống phương pháp dạy học phù hợp theo phương châm: hãy làm cho HS suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, giao tiếp đối thoại với nhau nhiều hơn qua trình bày nói và viết. 1.2. Tình hình của việc dạy học văn theo loại thể hiện nay Từ khi triển khai cải cách giáo dục (1986), chúng ta tiến hành thay đổi nội dung, chương trình, sách giáo khoa môn văn, quan niệm dạy học văn trong nhà trường có sự chuyển biến rõ rệt. Điều đó được thể hiện trước hết trong việc xác định khái niệm của môn học, trong việc chọn lựa nội dung chương trình và cách thức tiến hành việc dạy học văn. Chúng ta dần dần từng bước khắc phục những quan điểm phiến diện một thời về môn văn cũng như có sự sàng lọc, lựa chọn nội dung sách giáo khoa môn học sao cho đảm bảo đúng đặc trưng bản chất văn chương – vốn là một môn nghệ thuật ngôn từ, kết tinh bao giá trị tình cảm cao đẹp của dân tộc và nhân loại. Từ đo, phương pháp dạy học văn có sự thay đổi. GV văn ở Trung học phổ thông chú trọng nhiều đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm. Bởi vì nội dung của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được phản ánh trong tác phẩm thông qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ. Hình thức tác phẩm văn học là hệ thống các phương tiện, phương thức thể hiện nội dung. Nói về tác phẩm có giá trị, Biêlinxki cho rằng, trong tác phẩm nghệ thuật, hình thức và tư tưởng phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy. Mặt khác, ông lại viết, khi hình thức là biểu hiện nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó ra khỏi nội dung có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngược lại, tách nội dung khỏi hình thức có nghĩa là tiêu diệt hình thức. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương tạo nên đặc trưng riêng của từng loại thể. Nói cách khác, loại thể văn học là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan khắng khít với nội dung. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới một hình thức nhất định, đòi hỏi một phương pháp, một cách phân tích, dạy học phù hợp với nó. Thế nhưng, trong một thời gian dài trước đây, vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể còn bị xem nhẹ. Ngày nay, nhờ sự tác động tích cực của việc tiếp nhận lí luận mới, chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của nó. Trong lần cải cách chương trình gần đây, người biên soạn không sắp xếp tác phẩm theo tiến trình lịch sử hay tách riêng hai phần văn học Việt Nam và văn học nước ngoài như trước. Ở từng thời kì hoặc giai đoạn, các văn bản được sắp xếp theo từng cụm thể loại: thơ, truyện, nghị luận, phú, kịch, khúc ngâm, truyện Nôm, văn tế...Việc sắp xếp này không chỉ làm nổi bật thể loại, nhân vật chính của lịch sử văn học mà còn thuận lợi cho việc dạy đọc – hiểu. Bởi đọc và cảm thụ văn học phải tuân theo quy luật thể loại, gắn liền với việc bồi dưỡng tri thức thể loại và đánh giá thành tựu văn học theo thể loại. Việc sắp xếp ấy cũng góp phần thuận lợi cho HS làm văn, nhất là nghị luận xã hội và nghị luận văn học.Vì thế, cuối mỗi cụm bài, sách giáo khoa Ngữ văn có trình bày một số tri thức lí luận về thể loại. Mặc dù có sự đổi mới nhận thức nhưng không phải bất cứ GV nào cũng nắm kiến thức về loại thể thật đầy đủ. Hơn nữa, đến nay vẫn chưa có tài liệu đi sâu vào việc hướng dẫn dạy một tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể thật hoàn thiện. Vì vậy, GV không tránh khỏi những khó khăn, lúng túng trong cách soạn giáo án cũng như dạy học. 1.3. Tầm quan trọng của việc dạy học văn theo đặc trưng loại thể Loại thể văn học là một hiện tượng tồn tại theo quy luật loại hình gắn với quá trình sáng tạo nghệ thuật: Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng giảng theo loại thể. Nói một cách khác, phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác quy định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người đọc và cũng từ đó quy định phương thức giảng dạy của chúng ta 6, tr.30. Vì thế, như sự tương quan tất yếu, khi dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường, người dạy và người học cần thiết phải nắm được những quy tắc của việc tổ chức xây dựng về loại hình để tạo nên những giá trị văn chương đa dạng. Trước hết, khi hướng dẫn HS tiến hành phân tích bài văn người GV phải nắm chắc kiến thức lí luận về loại thể, từ đó mới có phương cách thích hợp để dẫn dắt người học tìm tới những khía cạnh độc đáo trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Dạy một bài ca dao, một bài thơ, một truyện ngắn, vở kịch người GV cần chỉ dẫn cho HS đi vào những đặc trưng của loại thể như thế nào. Trong quá trình thâm nhập bài văn, HS sẽ lần theo những điểm khác biệt giữa phong cách sáng tạo để nhận ra sự khám phá độc đáo của ngừơi nghệ sĩ. Nhờ đó, qua quá trình cảm thụ, hiểu biết tác phẩm HS sẽ dần dần tích lũy những loại hình văn học ra đời trong lịch sử văn học. Đúng như nhà sư phạm Liên Xô cũ – Nhikônxki từng nhấn mạnh phải tạo ra “cảm giác loại hình” trong đầu óc HS. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Vấn đề loại thể văn học trong nhà trường Loại thể đã được biết đến từ trong quá trình sáng tác của nhà văn. Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định. Không có tác phẩm văn học nào được sáng tạo nên lại nằm ngoài những hình thức quen thuộc đó. Vì vậy, bên cạnh nhan đề tác phẩm, tác giả thường ghi tên thể loại. Nhiều khi tên thể loại gắn liền với nhan đề tác phẩm: Bình Ngô đại cáo, Bạch Đằng giang phú, Văn tế Trương Quỳnh Như, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…. Thời nhà trường phong kiến, tuy về quan niệm, văn được xem là môn học có tính chất nguyên hợp, nhưng khi đi vào phân tích bình giải các bài văn, người dạy cũng chú ý đến đặc điểm loại hình của các tác phẩm. Các nhà nho xưa vốn được đào tạo theo con đường cử nghiệp rất chú trọng tới lối văn chương cử tử nên luôn chú tâm tới việc tuân thủ các quy tắc sáng tạo thơ, phú nói chung. Nhờ đó, khi tiếp cận với tác phẩm, các nhà giáo và học trò cũng xuất phát từ những điểm khác biệt về cách thể hiện nội dung để tìm tới giá trị văn chương. Mặc dù những quan niệm về lý thuyết loại hình chưa được xây dựng thành hệ thống khoa học hoàn chỉnh toàn diện, song một số kiến giải uyên thâm về văn thơ của các bậc thức giả thời trước cũng giúp soi rọi cho những quy luật sáng tạo văn chương. Vì thế, ngày nay chúng ta có thể kế thừa một phần di sản quý báu của người xưa để lại nhằm bổ sung môn lí luận văn học. Đến thời nhà trường Pháp – Việt, do quá trình tiếp nhận nền giáo dục Phương Tây ở một nước thuộc địa, nhà trường hiện đại đã bước đầu hình thành. Để phục vụ cho chính sách bóc lột khai thác thuộc địa, nhà trường thời Pháp – Việt đã thay đổi mạnh mẽ về hệ thống, về niên chế và phương thức đào tạo. Môn Văn học được xem là môn học đặt nền tảng cho việc trau dồi kiến thức, kỹ năng suy nghĩ, diễn đạt cho người học, vì vậy mà việc xây dựng chương trình sách giáo khoa thay đổi khác thời phong kiến rõ rệt. Ngôn ngữ và văn học Pháp được đặt vào vị trí trọng yếu bên cạnh môn Quốc văn. Nhờ hệ thống kiến thức về văn chương ngôn ngữ là kết tinh cho truyền thống văn hóa Pháp được giảng dạy trong khóa trình mà người học có thể mở rộng thêm tầm nhìn văn chương và cuộc sống một cách sâu sắc. Điều nổi bật cần nói đến về mặt kỹ thuật dạy học - yếu tố mới mẽ – đó là giờ dạy học văn không tách rời với việc nắm các kiến thức về triết học, ngôn ngữ học, lí luận văn học, lôgic học. Do vậy, nguồn tri thức văn chương được mở rộng và củng cố. Tính hợp lí của tư duy duy lí phương Tây giờ đây có điều kiện thực thi trong cấu tạo chương trình sách giáo khoa văn. Tác phẩm văn học được tuyển chọn tương đối chặt chẽ, hệ thống, thể hiện ở chỗ được sắp xếp theo thể loại: văn học dân gian, anh hùng ca, văn hùng biện, hồi ký lịch sử, kịch. Giờ học văn giờ đây đã thoát khỏi lối truyền thụ máy móc, áp đặt của thời nhà trường phong kiến để từ đó người dạy và người học có cơ hội tìm hiểu, lí giải, cảm thụ sâu sắc những giá trị tạo nên tác phẩm từ nguồn kiến thức được mở rộng của các liên môn như nói trên. Giờ phân tích văn được gọi là Explication des Textes, được kết cấu như một quy trình hợp lí từ những hiểu biết về bối cảnh lịch sử, tác giả, tác phẩm để tìm tới ý tưởng nghệ thuật và giá trị đích thực của tác phẩm. Sau ngày cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhà trường của chế độ mới ta đời và phát triển cho tới nay đã trải qua chặng đường hơn sáu mươi năm. Chúng ta có thể tự hào những bước tiến của nhà trường cách mạng với nỗ lực đào tạo thế hệ trẻ dựa trên việc xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học thích hợp. Đối với lĩnh vực dạy học văn, thành tựu nổi bật ngay sau ngày độc lập là nêu cao vị thế của nền quốc văn Việt Nam bằng việc tuyển chọn các tác phẩm văn chương chứa đựng những giá trị yêu nước và nhân đạo của dân tộc, khôi phục phát huy vị thế của tiếng Việt trong nhà trường. Nhờ đó, dần dần chúng ta có một chương trình ngữ văn thích hợp cho các bậc học, cấp học. Để có thể tự chủ, sáng tạo trong công việc dạy học văn, một mặt chúng ta nỗ lực tìm tòi những tri thức mới mẻ, tiến bộ của lí luận khoa học Mác – Lênin về lịch sử văn học ngôn ngữ làm nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển của khoa văn học, mặt khác chúng ta không chối bỏ những kiến thức khoa học có liên quan đến môn văn của thời Pháp làm nguồn tham khảo bổ ích cho việc xây dựng phương hướng dạy học văn mới. Vì thế, có thể xem những người góp công đầu vào quá trình này là những nhà sư phạm, các học giả có lòng yêu mến nền văn học dân tộc, có tâm huyết với việc tạo nền móng cho hoạt động nghiên cứu giảng dạy văn học mà người tiêu biểu là giáo sư Đặng Thai Mai. Bằng việc biên soạn Giảng văn Chinh phụ ngâm (1950), giáo sư là người có công đầu trong công việc này. Những quan niệm, những đề xuất về cách thức dạy học một tác phẩm của tác giả có những điểm mới mẻ về phương pháp luận của người đứng trên lập trường Mác xít. Song chính ông cũng là người kế thừa những lí luận rất bổ ích về loại thể vốn đã có từ thời trước. Nhờ đó, ông mạnh dạn đề xuất “Thử áp dụng một số ý kiến, có thể là một lời đề nghị về cách giảng văn”, xem xét khúc ngâm dưới góc độ loại thể là một căn cứ quan trọng của việc giảng văn. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, vào năm 1954, hòa bình lập lại, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, mở đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong điều kiện thuận lợi của bối cảnh mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa được xây dựng và phát triển, hệ thống giáo dục từng bước được hoàn thiện. Nhờ sự giao lưu rộng mở với phe xã hội chủ nghĩa, lần đầu tiên các giáo trình của bậc đại học được biên soạn. Có thể nói, nguồn tài liệu tuy chưa dồi dào nhưng trong điều kiện vừa trải qua một thời gian dài chịu sự lệ thuộc của nhà trường thuộc địa, lại qua chiến tranh, chúng ta chưa có cơ sở vật chất, phương tiện dạy học cần thiết thì đến nay, bước đầu đã có tủ sách ở bậc đại học. Riêng về lí luận văn học và phương pháp dạy văn, có thể nêu: Nguyên lí lí luận văn học của Ti-mô-fi-ep, Phương pháp dạy văn học của Gơ-lu-cốp. Từ đó, lần lượt ra đời các giáo trình Lí luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc, Tu từ học của Đinh Trọng Lạc, Phương pháp giảng dạy văn học của Đại học sư phạm Hà Nội (1963). Từ giữa thập niên 60 trở đi, nguồn tài liệu đó được bổ sung tiếp. Đây là chỗ dựa cần thiết để người GV văn ở bậc phổ thông có cơ sở khoa học và sư phạm khi tiến hành giảng dạy tác phẩm văn. Ở phạm vi hẹp, xét về quan niệm loại thể, các tài liệu nói trên đã đặt cơ sở đầu tiên cho việc nắm loại hình văn học. Dầu sao cũng có thể thấy những quan điểm loại hình còn đơn giản, phiến diện, nhưng đặt vào bối cảnh của nhà trường lúc bấy giờ mới thấy sự cần thiết và bổ ích của nó. Cuốn giáo trình Phương pháp giảng dạy văn học, sau khi trình bày những lí luận chung về phương pháp dạy học và đã: …Giành phần còn lại để đề cập tới phương pháp giảng một bài văn cụ thể. Có thể xem đây là việc vận dụng lí thuyết loại hình, một lĩnh vực của lí luận văn học rất gần gũi, gắn bó với công việc dạy học tác phẩm văn học, từng được các nhà sư phạm quan tâm. Nhưng do phạm vi lí luận tương đối rộng lại đòi hỏi nhiều công sức nghiên cứu, vận dụng nên các tác giả chưa có điều kiện giải quyết thấu đáo mà chỉ nêu một vài ý kiến sơ bộ khi trình bày 2, tr.42. Tiếp tục theo hướng nghiên cứu đó, một số tác giả đã nhận rõ việc thâm nhập vào loại thể, nắm bắt hiểu biết sâu sắc các loại thể văn học là bước quan trọng để đi vào cảm thụ phân tích tác phẩm. Vì lẽ ấy, đến năm 1971, giáo sư Trần Thanh Đạm cùng các cộng sự biên soạn tài liệu Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Chuyên luận này vừa trình bày kiến thức lí luận lại vừa vận dụng nó vào dạy học các tác phẩm theo đặc trưng loại thể. Có thể xem đây là một chuyên luận đáp ứng đúng mong đợi của người dạy học văn bấy lâu. Trong một thời gian khá dài, nó được xem là tài liệu cần thiết, chủ yếu trong tủ sách tham khảo của GV phổ thông và đã được chỉnh lý bổ sung, tái bản nhiều lần. Vào lúc đó, tâm lý chung của người dạy học thường dễ bằng lòng với những kiến thức sách vở nhất là quen dựa vào các tài liệu hướng dẫn giảng dạy được biên soạn bởi cơ quan chuyên môn. Do vậy, vấn đề lí luận và cách dạy tác phẩm theo loại thể hầu như không có sự tìm tòi, bàn luận gì khác hơn. Chuyện cải cách dạy học văn thường mang tính hình thức; cho nên hướng nghiên cứu và giảng dạy văn học theo loại thể tuy được nêu từ lâu nhưng vào một thời kỳ phương pháp tư duy ít chú ý tới sự trao đổi, tranh luận, vì thế tình hình dạy học văn không có chuyển biến mạnh. Trong thời gian tiếp theo, qua một số tài liệu được biên soạn, các tác giả tuy có chú ý
Tài liệu liên quan