Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới vềmọi mặt của đất nước trong giai đoạn hiện nay-giai 
đoạn đất nước bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thếgiới. BộGiáo 
dục và Đào tạo đã quyết định”Đổi mới chương trình giáo dục phổthông từmục tiêu (MT), 
nội dung, phương pháp đến phương tiện dạy học ”[4] 
Trong lần đổi mới phân ban này, MT giáo dục của các môn học đã được đưa ra một 
cách đầy đủtrong cảba lĩnh vực: nhận thức, kĩnăng, thái độ. Trong đó, MT vềnhận thức 
yêu cầu học sinh (HS) không chỉnhớ, thuộc nội dung kiến thức mà phải nắm vững các kiến 
thức cụthể ởcác mức độkhác nhau. 
MT giáo dục là khâu quan trọng của quá trình dạy học. Nó định hướng cho việc lựa 
chọn nội dung, phương pháp dạy và học, phương tiện dạy học và là cơsở đểxây dựng các 
tiêu chí đánh giá kết quảhọc tập của HS. Đểviệc dạy và học đạt được MT môn học hiện 
nay đối với cảgiáo viên (GV) và HS không là đơn giản. Trong khi đó thì hầu hết các MT 
quan trọng đều phải đạt được bằng chính hoạt động dạy học. Nhưng trong thực tế, cách thi 
cửcủa chúng ta trong nhiều nămqua chú trọng nhiều đến việc học thuộc lòng nội dung kiến 
thức và vận dụng giải bài tập. Do đó, không ít GV gặp khó khăn khi phải đổi mới phương 
pháp dạy học (PPDH) hướng tới các MT [22] 
Đổi mới từnội dung đến hình thức thi cử đểkiểm soát các MT giáo dục, chất lượng 
giáo dục đã được ngành giáo dục khởi động ngay từ đầu năm học này và ngày càng triệt để
hơn ởcác năm sau. Khi việc kiểm tra (KT) thi cử đã bám sát MT thì đềthi sẽngày càng ít 
yêu cầu học thuộc lòng mà đòi hỏi HS phải thểhiện sựhiểu biết các kiến thức ởcác mức độ
khác nhau nhưMT đã đềra. Chính vì thếmà người GV rất cần phải quan tâm đến MT cần 
đạt được khi dạy các bài học khác nhau. 
Có một cách làm có thểgiúp người GV hiện thực hóa và kiểm soát các MT cần đạt tới 
trong quátrình dạy học đó là cụthểhóa các MT cần đạt được trong quá trình dạy học thành 
bộcâu hỏi cần trảlời, những việc HS cần phải làm được hoặc những vấn đềHS cần giải 
quyết được trong quá trình dạy học. Nhưvậy thì người GV có thểkiểm soát được mức độ
đạt được MT thông qua đánh giá mức độ đạt được của HS khi tham gia giải quyết vấn đề
hay trảlời câu hỏi. Nghĩa là ta có thểchuyển các MT quan trọng trong lĩnh vực nhận thức 
thành bộcâu hỏi mà người GV phải tổchức quá trình dạy học nhưthếnào đểHS trảlời hay 
thực hiện tốt bộcâu hỏi đó. Việc thay thếcác MT bằng bộcâu hỏi giúp người GV có định 
hướng rõ ràng và cụthể đểthực hiện MT, hiểu rõ hơn công việc và mục đích mình cần đạt 
tới. Bộcâu hỏi nhưthếcó tác dụng nhưcơsở định hướng tốt cho cảhoạt động dạy của GV 
và hoạt động học của HS. 
Chính vì thế, tôi quyết định chọn đềtài: Xây dựng bộcâu hỏi định hướng cho việc 
dạy và việc học chương” Động lực học chất điểm” (chương trình lớp 10 ban cơbản).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 122 trang
122 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1795 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng bộ câu hỏi định hướng cho việc dạy và học “động lực học chất điểm” chương trình lớp 10 ban cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH 
NGUYỄN NGỌC THẮNG 
XÂY DỰNG BỘ CAU HỎI ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆC 
DẠY VÀ HỌC “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM” 
CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10 BAN CƠ BẢN 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC 
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN VẬT LÝ 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 
TS. LÊ THỊ THANH THẢO 
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 
LỜI CẢM ƠN 
 Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Thị Thanh Thảo đã tận 
tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. 
 Tôi chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Vật Lý và phòng Khoa học Công nghệ và 
Sau đại học Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
 Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu và các giáo viên tổ Vật Lý trường THPT 
Dân Lập An Đông, Quận 5, TPHCM, nơi tôi đang công tác và tiến hành thực nghiệm sư 
phạm. 
 Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp 
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. 
 MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới về mọi mặt của đất nước trong giai đoạn hiện nay-giai 
đoạn đất nước bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thế giới. Bộ Giáo 
dục và Đào tạo đã quyết định”Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông từ mục tiêu (MT), 
nội dung, phương pháp đến phương tiện dạy học…”[4] 
Trong lần đổi mới phân ban này, MT giáo dục của các môn học đã được đưa ra một 
cách đầy đủ trong cả ba lĩnh vực: nhận thức, kĩ năng, thái độ. Trong đó, MT về nhận thức 
yêu cầu học sinh (HS) không chỉ nhớ, thuộc nội dung kiến thức mà phải nắm vững các kiến 
thức cụ thể ở các mức độ khác nhau. 
MT giáo dục là khâu quan trọng của quá trình dạy học. Nó định hướng cho việc lựa 
chọn nội dung, phương pháp dạy và học, phương tiện dạy học và là cơ sở để xây dựng các 
tiêu chí đánh giá kết quả học tập của HS. Để việc dạy và học đạt được MT môn học hiện 
nay đối với cả giáo viên (GV) và HS không là đơn giản. Trong khi đó thì hầu hết các MT 
quan trọng đều phải đạt được bằng chính hoạt động dạy học. Nhưng trong thực tế, cách thi 
cử của chúng ta trong nhiều năm qua chú trọng nhiều đến việc học thuộc lòng nội dung kiến 
thức và vận dụng giải bài tập. Do đó, không ít GV gặp khó khăn khi phải đổi mới phương 
pháp dạy học (PPDH) hướng tới các MT [22] 
Đổi mới từ nội dung đến hình thức thi cử để kiểm soát các MT giáo dục, chất lượng 
giáo dục đã được ngành giáo dục khởi động ngay từ đầu năm học này và ngày càng triệt để 
hơn ở các năm sau. Khi việc kiểm tra (KT) thi cử đã bám sát MT thì đề thi sẽ ngày càng ít 
yêu cầu học thuộc lòng mà đòi hỏi HS phải thể hiện sự hiểu biết các kiến thức ở các mức độ 
khác nhau như MT đã đề ra. Chính vì thế mà người GV rất cần phải quan tâm đến MT cần 
đạt được khi dạy các bài học khác nhau. 
Có một cách làm có thể giúp người GV hiện thực hóa và kiểm soát các MT cần đạt tới 
trong quá trình dạy học đó là cụ thể hóa các MT cần đạt được trong quá trình dạy học thành 
bộ câu hỏi cần trả lời, những việc HS cần phải làm được hoặc những vấn đề HS cần giải 
quyết được trong quá trình dạy học. Như vậy thì người GV có thể kiểm soát được mức độ 
đạt được MT thông qua đánh giá mức độ đạt được của HS khi tham gia giải quyết vấn đề 
hay trả lời câu hỏi. Nghĩa là ta có thể chuyển các MT quan trọng trong lĩnh vực nhận thức 
thành bộ câu hỏi mà người GV phải tổ chức quá trình dạy học như thế nào để HS trả lời hay 
thực hiện tốt bộ câu hỏi đó. Việc thay thế các MT bằng bộ câu hỏi giúp người GV có định 
hướng rõ ràng và cụ thể để thực hiện MT, hiểu rõ hơn công việc và mục đích mình cần đạt 
 tới. Bộ câu hỏi như thế có tác dụng như cơ sở định hướng tốt cho cả hoạt động dạy của GV 
và hoạt động học của HS. 
Chính vì thế, tôi quyết định chọn đề tài: Xây dựng bộ câu hỏi định hướng cho việc 
dạy và việc học chương” Động lực học chất điểm” (chương trình lớp 10 ban cơ bản). 
2. Mục đích nghiên cứu 
Nghiên cứu một số chiến lược dạy học dựa trên câu hỏi để vận dụng một cách sáng tạo 
chúng vào việc xây dựng bộ hỏi định hướng (CHĐH) cho việc dạy và việc học chương 
“Động lực học chất điểm” thuộc chương trình lớp 10 ban cơ bản. 
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 
- Khách thể nghiên cứu: Các yếu tố liên quan đến quá trình dạy và học. 
- Đối tượng nghiên cứu: MT giáo dục của môn học vật lý và vai trò của bộ CHĐH 
trong quá trình dạy và học. 
4. Giả thuyết nghiên cứu 
Nếu xây dựng được bộ CHĐH tốt, thể hiện rõ khả năng hiện thực hóa các MT nhận 
thức quan trọng của nội dung từng chương trong chương trình học thì đó sẽ là cơ sở định 
hướng cho cả việc dạy của GV và việc học của HS, làm cho quá trình dạy học trở nên chất 
lượng và hiệu quả hơn. 
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận chính có liên quan đến đề tài. 
- Nghiên cứu một số chiến lược dạy học dựa trên câu hỏi. 
- Nghiên cứu vai trò bộ CHĐH cho việc dạy và học chương “Động lực học 
chất điểm” (chương trình lớp 10 ban cơ bản). 
- Nghiên cứu xây dựng bộ CHĐH cho việc dạy và học chương “Động lực học 
 chất điểm” (chương trình lớp 10 ban cơ bản). 
- Nghiên cứu khả năng thực nghiệm (TN) sư phạm của đề tài để đánh giá hiệu quả của 
định hướng dạy học này. 
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 
 Phương pháp luận nghiên cứu: 
- Nghiên cứu tài liệu về giáo dục học và tâm lý học hướng vào người học. 
- Nghiên cứu một số chiến lược dạy học dựa trên câu hỏi. 
- Nghiên cứu chương trình cơ học lớp 10. 
- Nghiên cứu MT giáo dục môn học vật lý – phần cơ học lớp 10. 
 Phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp phỏng vấn: 
 Trao đổi với một số GV dạy vật lý và HS của trường Trung học phổ thông (THPT) 
Dân Lập An Đông 
- Phương pháp chọn mẫu: 
HS một số lớp của khối 10 trường THPT Dân Lập An Đông 
- Phương pháp thực nghiệm ( TN): 
Các giả thuyết đề ra được tiến hành kiểm chứng để đánh giá vai trò của bộ CHĐH 
trong quá trình dạy và học. 
- Phương pháp thống kê toán học: 
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để trình bày kết quả TN sư phạm và kiểm 
định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm đối chứng 
(ĐC) và thực nghiệm (TN). 
7. Giới hạn đề tài 
 Thực tiễn 
- Thời gian: Trong một học kỳ. 
- Kiến thức: Cơ học lớp 10. 
 Mức độ kết quả đạt được: 
- Xây dựng bộ CHĐH cho chương “Động lực học chất điểm” chương trình lớp 10 ban 
cơ bản trong đó chỉ rõ khả năng có thể hiện thực hóa các MT nhận thức quan 
 trọng mà chương trình học đề ra. 
- Đánh giá kết quả của việc sử dụng bộ CHĐH vào việc dạy và học qua phần TN sư 
phạm: Dạy học một số bài học chủ yếu trong chương “Động lực học chất điểm” theo bộ 
CHĐH ( mức độ nắm vững kiến thức, việc tinh giản, hệ thống hóa kiến thức…). 
8. Cấu trúc luận văn 
 Luận văn có cấu trúc như sau: 
Mở dầu 
Nội dung 
Chương 1 - Một số cơ sở lý luận của đề tài. 
Chương 2 - Xây dựng bộ CHĐH cho việc dạy và việc học chương “Động lực học 
chất điểm” (chương trình lớp 10 ban cơ bản). 
Chương 3 - TN sư phạm: Dạy học một số bài chủ yếu trong chương “Động lực 
học chất điểm” theo bộ CHĐH. 
Kết luận 
Tài liệu tham khảo 
Phụ lục 
 Trong đó: 
Phần mở đầu có 4 trang 
Phần nội dung có 103 trang 
Phần kết luận có 2 trang 
Phần phụ lục có 31 trang 
Luận văn có sử dụng 32 tài liệu tham khảo. 
 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 
1.1. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VẬT LÍ 
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 
1.1.1. Những khó khăn của việc đổi mới của phương pháp dạy học [4],[22] 
Để thực hiện được MT đổi mới giáo dục cần phải giải quyết đồng bộ rất nhiều vấn 
đề. Riêng về phương pháp giáo dục, những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục đã 
được nhà nước và ngành giáo dục quan tâm từ rất lâu như: trong Nghị quyết của Hội nghị 
lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1/1993), trong Hội nghị lần thứ 
hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (12/1996), trong Luật giáo dục 
(12/1998), trong Nghị quyết của Quốc hội khóa X về chương trình đổi mới giáo dục phổ 
thông (12/2000), trong các Chỉ thị của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, 
đặc biệt là trong lần phân ban này… Tinh thần cơ bản của yêu cầu đổi mới giáo dục là phải 
làm thế nào phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS. 
Tuy nhiên, có thể nói việc đổi mới PPDH cho đến nay chưa đem lại sự chuyển biến 
đáng kể về chất lượng giáo dục. Dưới đây là một số lý do có thể đưa ra giải thích tình trạng 
trên: 
- Nội dung thi cử là MT mà cả GV và HS đều hướng tới, nhưng thực trạng thi cử 
trước đây “nghèo về hình thức, lạc hậu về nội dung” [22] kéo dài rất lâu. Nội dung thi cử 
chỉ nhằm xem HS có nắm vững kiến thức sách vở, có giải được những bài toán khó hay 
không, không có cách nào để KT xem sau khi tốt nghiệp THPT HS đã được trang bị đủ 
những kĩ năng cần thiết tối thiểu cho cuộc sống hay chưa. Do đó dẫn đến GV chưa thấy tính 
cấp bách của yêu cầu đổi mới PPDH. Nhiều GV cho rằng cứ dạy tốt theo phương pháp cũ 
cũng có thể chuyển tải hết nội dung kiến thức của sách giáo khoa (SGK) cho HS và đảm bảo 
được tỉ lệ tốt nghiệp phổ thông và đỗ đại học cao, như thế là việc dạy học có hiệu quả tốt.. 
- Có sự chênh lệch lớn giữa MT đề ra và nội dung các kì thi quan trọng. Do đó, GV 
khi giảng dạy ít quan tâm đến MT [22] 
- Nhiều GV, nhất là GV được đào tạo trong các giai đoạn trước đây không được cập 
nhật đầy đủ cả về lí luận và kĩ năng để đổi mới PPDH [22] Vì thế, có nhiều người có thiện 
chí muốn đổi mới PPDH thực sự nhưng đã đi theo những định hướng chưa thật chính xác. 
- Khối lượng kiến thức của chương trình thì quá lớn, trong khi đó, thời lượng dành 
cho mỗi môn học lại quá hạn chế. Do đó không thuận lợi cho việc tổ chức dạy học theo 
phương pháp mới. 
 - Thiết bị thí nghiệm của trường phổ thông rất nghèo nàn, trường lớp được xây dựng 
theo các qui cách cổ hủ, không thuận lợi cho việc tổ chức cho HS hoạt động trong tiết học. 
Một khó khăn nữa của nhà trường THPT của ta hiện nay là số lượng HS quá đông 
trong một lớp. Vì thế việc quản lý trật tự của lớp đã khó khăn, do đó khó có thể việc tổ chức 
cho HS hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng. 
1.1.2. Những định hướng chung của việc đổi mới phương pháp dạy học vật lí trung 
học phổ thông 
1. Sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống trên tinh thần áp dụng một số ý 
tưởng của chiến lược dạy học hiện đại nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, 
sáng tạo của học sinh 
 Việc đổi mới PPDH không có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn các PPDH truyền thống. Đổi 
mới PPDH cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực của hệ thống PPDH quen thuộc, [4] 
đồng thời cần học hỏi, vận dụng, một số ý tưởng của các PPDH tích cực trên thế giới sao 
cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy học ở nước ta để giáo dục từng bước tiến lên 
vững chắc nhằm phát huy được mức tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong 
những tình huống cụ thể. [22] 
 Trong quá trình dạy học, cần chú ý đến phương pháp tạo cơ hội, tạo điều kiện cho 
người học tích cực, chủ động , đặc biệt là quan điểm kiến tạo trong dạy học. [22] Quá trình 
dạy học là quá trình giải quyết các vấn đề thực tiễn trên cở sở kiến thức được học. 
2. Dạy học bằng hoạt động và thông qua hoạt động của học sinh 
 Theo quan niệm mới về việc dạy học, vai trò chính yếu của GV là tổ chức và 
 hướng dẫn các hoạt động học tập của HS sao cho HS có thể tự lực chiếm lĩnh được kiến 
thức và kĩ năng mới. Đó là vì các kiến thức, kĩ năng và thái độ ứng xử chỉ có thể hình thành 
được ở mỗi con người bằng hoạt động tìm tòi, khám phá, nghiền ngẫm, trao đổi và giao tiếp 
của chính con người đó. Do đó, trong tiết dạy học đổi mới, GV cần quan tâm xem HS hoạt 
động như thế nào. Các em đã thu hoạch được những giá trị gì. “Diễn viên” chính của lớp 
học là HS, còn GV chỉ đóng vai trò là “người đạo diễn”. Trong giờ học, mọi HS đều làm 
việc hết sức tích cực, “HS không thể như con chim non nằm trong tổ há miệng chờ chim mẹ 
tha mồi về mớm cho ăn”.[24] HS phổ thông, nhất là THPT, đã có mức độ trưởng thành nhất 
định. GV cần phải dạy cho “các con chim này bắt đầu bay đi tìm mồi”.[24] Trong nhà 
trường phải bắt đầu huấn luyện cho HS tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động 
học tập để sau này các em có năng lực bươn trải trong cuộc sống. 
 Việc tổ chức các hoạt động học tập của HS trong tiết học phải được tiến hành một 
cách hết sức linh hoạt để tránh sự đơn điệu, nhàm chán. Những khó khăn lớn nhất đối với 
 việc đổi mới PPDH theo hướng này là vấn đề khối lượng kiến thức và thời gian dạy học. Để 
giải quyết những khó khăn này, đòi hỏi phải có sự cân nhắc kĩ lưỡng của GV giữa việc tổ 
chức cho HS hoạt động học tập trên lớp, việc thuyết giảng của GV và việc tổ chức cho HS 
tự học ở nhà. Thành công của việc tổ chức các hoạt động học tập nói trên cho HS phụ thuộc 
không những vào khả năng của GV, mà còn phụ thuộc vào thói quen và thái độ học tập của 
HS. Chúng ta cần tiến hành từng bước, đổi mới dần dần từng hoạt động trên lớp để không 
những GV quen dần với PPDH dựa trên nguyên tắc tổ chức cho HS hoạt động, mà còn để 
HS chuyển dần từ thói quen học tập thụ động sang thói quen học tập tích cực, sáng tạo. Đây 
là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải thực hiện theo tinh thần kiên trì, không nóng vội. 
3. Tăng cường học tập cá nhân phối hợp một cách hài hòa với học tập hợp tác 
 Cần phải biết phối hợp giữa hình thức học tập cá nhân và học tập hợp tác một cách 
hài hòa để tận dụng những ưu điểm của từng hình thức. Tùy theo nội dung 
 kiến thức cần dạy mà áp dụng hình thức học tập nào. 
 Các hình thức học tập hợp tác không những góp phần làm cho việc học tập 
 cá nhân có hiệu quả hơn mà còn có tác dụng rèn luyện cho HS tinh thần hợp tác trong lao 
động, thái độ chia sẽ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau, ý thức trách nhiệm trong công việc 
chung. Theo lý thuyết về vùng phát triển gần của Vư-gốt –xki, các tương tác thầy - trò, trò 
– trò trong lớp học có thể giúp cho HS vượt qua được những trở ngại để đạt đến những hiểu 
biết mới.[17] Qua những thảo luận, tranh luận, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, được 
khẳng định hay bị bác bỏ, qua đó những hiểu biết của họ sẽ được hình thành hoặc được 
chính xác hóa. Mặt khác, trong việc học tập theo nhóm, tất cả mọi HS, từ người kém đến 
người khá, đều có thể trình bày ý kiến của mình, tức là có điều kiện để tự thể hiện mình. 
Điều đó có tác dụng kích thích rất mạnh hứng thú học tập của HS. 
4. Coi trọng việc bồi dưỡng phương pháp tự học 
 Một đặc trưng quan trọng của xã hội hiện đại là sự bùng nổ thông tin. Những ứng 
dụng kĩ thuật hiện đại của hôm nay sẽ nhanh chóng lạc hậu. Vì thế, mọi người trong xã hội 
phải biết cách cập nhật thông tin. Một trong những cách khả dĩ là phải biết tự học. 
 Mặt khác dù là học trên lớp hay học ở nhà, mỗi HS phải thực sự động não để tiếp thu 
những điều cần học. Không ai có thể học thay ai được. Do đó, ngay trong tiết lên lớp, GV 
phải rèn luyện cho HS cách nắm bắt nội dung chính của mỗi phần tài liệu, đường lối suy 
nghĩ và hành động giải quyết vấn đề. 
 Việc rèn luyện cho HS khả năng tự học còn là một biện pháp giúp ta giải quyết một 
khó khăn rất lớn về mâu thuẫn giữa một bên là những yêu cầu về thời gian cần thiết để thực 
hiện việc đổi mới PPDH và bên kia là sự hạn hẹp của thời gian dành cho môn học. Người 
 GV phải tính toán cân đối giữa nội dung dạy học trên lớp và nội dung dành cho HS tự tìm 
hiểu ở nhà. Không cần bố trí dạy từ “A đến Z” [4] nội dung bài học trên lớp, mà nên dành 
một phần nội dung nào đó cho HS tự tìm hiểu ở nhà rồi sau đó KT kết quả sự tự học của 
HS. 
5. Coi trọng việc rèn luyện kĩ năng trong quá trình học tập 
 Một điều quan trọng không thể thiếu của việc đổi mới PPDH là coi trọng việc rèn 
luyện kĩ năng ngang tầm với việc truyền thụ kiến thức. Trong đó, đặc biệt chú ý đến các kĩ 
năng của một tiến trình khoa học giải quyết vấn đề. Đó là những kĩ năng thu lượm thông tin, 
xử lí thông tin để rút ra những kết luận bổ ích và truyền đạt thông tin cho cộng đồng. 
6. Nghiên cứu đổi mới thực hành thí nghiệm 
 Vật lí học là một môn khoa học TN. Các khái niệm vật lí, định luật vật lí đều gắn với 
thực tế và đều được hình thành bằng con đường thí nghiệm. Do đó, cần phải coi thực hành 
vật lí là một trong những biện pháp quan trọng để thu lượm thông tin từ thực tế. Trong thực 
hành, không những các kĩ năng thực hành như quan sát, sử dụng dụng cụ vật lí, lắp ráp thí 
nghiệm, vẽ đồ thị, xác định sai số… được rèn luyện mà cả óc suy đoán, tư duy lí luận và 
nhất là tư duy vật lí cũng được phát triển mạnh. 
 Muốn thế, GV không thể cho HS làm thí nghiệm theo kiểu chỉ đâu làm đấy một cách 
máy móc, mô tả một cách đơn giản hiện tượng vật lí xảy ra đã quá rõ ràng. Cần cho HS nắm 
được mục đích thí nghiệm, xây dựng phương án thực hành, tham gia làm thí nghiệm, xử lí 
kết quả và thảo luận rút ra kết luận cần thiết. Do đó, GV cần tổ chức cho nhóm HS làm các 
thí nghiệm minh họa đồng loạt theo hướng phát huy tính chủ động sáng tạo của HS trong 
học tập. 
7. Đổi mới cách soạn giáo án 
 Việc soạn giáo án đổi mới có thể tiến hành theo qui trình sau: 
- Lượng hóa các MT kiến thức và kĩ năng của bài học. Nghĩa là nêu ra những biểu hiện 
cụ thể ở HS mà căn cứ vào đó người ta có thể đánh giá xem HS đã đạt được MT đề ra hay 
chưa. Thông thường, MT được lượng hóa bằng những động từ mô tả các hành động của 
HS có thể bộc lộ việc nắm bắt MT của các em. 
- Chia bài học thành những nội dung tương đối độc lập và xây dựng bộ CHĐH cho 
một chương, một bài để các kiến thức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. 
- Chuẩn bị các thiết bị thí nghiệm, các phương tiện dạy học cần thiết. 
- Hoạch định các hoạt động học tập của HS và các hoạt động dạy tương ứng của GV 
trong tiết học. 
Một số hoạt động dạy học phổ biến trong một tiết học[4] 
 Hoạt động học của HS Hoạt động dạy của GV 
- Tiếp nhận nhiệm vụ học tập 
- Thu thập thông tin: 
+ Nghe GV giảng, nghe bạn phát biểu.., đọc 
và tìm hiểu một số vấn đề trong SGK. 
+ Tìm hiểu bản số liệu, quan sát hiện tượng 
tự nhiên hoặc thí nghiệm chứng minh. 
+ Làm thí nghiệm và lấy số liệu 
- Xử lí thông tin: 
+ Rút ra nhận xét hay kết luận từ những 
thông tin thu thập được. 
+ Lập bảng, vẽ đồ thị… Nhận xét về tính 
quy luật của hiện tượng. 
+ Trả lời các câu hỏi GV. 
+ Tranh luận với các bạn trong nhóm, hay 
trong lớp 
- Truyền đạt thông tin: 
+ Trình bày ý kiến nhận xét, kết luận. 
+ Thể hiện ý kiến của mình bằng hình vẽ. 
- Ghi chép những kết luận đã được hợp thức 
hóa. 
- Làm bài tập vận dụng 
- Tạo tình huống học tập và trao nhiệm 
vụ học tập cho HS. 
- Tổ chức và hướng dẫn hoạt động của 
HS 
+ Yêu cầu HS thực hiện hoạt động theo 
đúng hình thức tổ chức học tập. 
+ Giới thiệu tóm tắt nội dung, tài liệu 
cần tìm hiểu. 
+ Giảng sơ lược nếu cần thiết. 
+ GV hoặc nhóm HS làm thí nghiệm 
biểu diễn. 
+ Giới thiệu và hướng dẫn cách làm thí 
nghiệm, lấy số liệu. 
+ Chủ động về thời gian. 
- Tổ chức cho HS xử lí thông tin: 
+ Yêu cầu HS nêu nhận xét, kết luận. 
+ Đánh giá nhận xét kết luận của HS. 
+ Đàm thoại, gợi mở, chất vấn HS. 
+ Hướng dẫn HS cách lập bảng, vẽ đồ 
thị, rút ra nhận xét kết luận. 
+ Tổ chức trao đổi trong nhóm, trong 
lớp. 
+ Tổ chức hợp thức hóa kết luận. 
+ Chủ động về thời gian. 
- Tổ chức cho HS trình bày nhận xét, kết 
luận bằng lời hoặc bằng hình vẽ . 
- Tổ chức củng cố bài. 
- Ra bài tập vận dụng. 
1.2. CƠ SỞ TRIẾT HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC NHẬN THỨC CỦA QUÁ TRÌNH DẠY 
HỌC 
1.2.1. Cơ sở triết học và tâm lí học nhận thức của quá trình dạy học [12], [13],[18] 
Theo quan điểm triết học biến chứng, các sự vật hiện tượng, quá trình luôn 
 vận động và phát triển, động lực của sự phát triển được hình thành trong quá trình 
 giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn cơ bản, nội tại của chúng. 
 Trong cuộc sống, con người luôn chịu những tác động khách quan từ môi 
 trường, chúng có thể tác động ngẫu nhiên, tự phát hoặc tác động có mục đích. Mỗi cá nhân 
cần tiếp thu những tác động để chuyển hóa nó thành ý thức, hành vi phù hợp với các chuẩn 
mực được xã