Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta được khởi đầu bằng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) với việc thừa nhận kinh tế nhiều thành phần và chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn trong nó những phức tạp,đòi hỏi nhất định. Chấp nhận chuyển sang nền kinh tế thị trường là chấp nhận sự điều tiết thị trường bằng những quy luật của nó - một điều rất xa lạ với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đó. Các quy luật như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh . đã trở thành “những bàn tay vô hình” tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường mà ở đó lợi nhuận và hiệu quả được xem là mục tiêu, điều kiện đồng thời là lý do tồn tại hay không tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, cạnh tranh cũng xuất hiện như một hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu trên thị trường. Nó diễn ra trên mọi mặt của đời sống kinh tế và trở thành yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp buộc phải quan tâm.
Từ năm 1995, với việc tham gia ASEAN, nước ta bắt đầu tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế một cách toàn diện và ngày càng sâu rộng hơn đánh dấu bằng việc tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), ký kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) và mới đây là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quá trình này đã làm thay đổi một cách cơ bản vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế .
Đối xử bình đẳng giữa các nước bạn hàng, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài là một trong những cam kết cơ bản trong AFTA, APEC, BTA và WTO. Các cam kết sẽ tăng thêm sức ép cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu, với doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này sẽ đặt các doanh nghiệp trong nước cũng như toàn bộ nền kinh tế trước những thách thức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, thể chế pháp lý ở nước ta lúc này vẫn còn nhiều bất cập trong việc đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, đang hạn chế doanh nghiệp tham gia thị trường và cạnh tranh. Để doanh nghiệp trong nước chuẩn bị cho quá trình hội nhập, bước vào cạnh tranh quốc tế gay gắt khi các cam kết quốc tế có hiệu lực đầy đủ, nhà nước ta cần xây dựng chính sách cạnh tranh để tạo ra và duy trì môi trường cạnh tranh tích cực trên thị trường trong nước.
Đứng trước những đòi hỏi cấp bách đó, tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khoá XI ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh được thông qua sau 14 lần chỉnh sửa. Có thể nói, sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội, trở thành công cụ điều chỉnh các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Có người đã nhận xét, sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 chứng tỏ lỗ hổng cuối cùng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã được khắc phục.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, ỷ lại vào Nhà nước, tỏ ra kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì những yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đây là một thực tế khó khăn trong việc đưa các quy định của Luật Cạnh tranh vào cuộc sống.
Vậy làm thế nào để chính sách cạnh tranh được thực thi một cách có hiệu quả, tạo cạnh tranh năng động trên thị trường? Một trong những vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải cách DNNN.Từ lâu, cải cách DNNN là mối quan tâm của Đảng và nhà nước ta với nhiều giải pháp được thực hiện trong từng thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho thấy: Cổ phần hoá (CPH) là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. CPH là giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng câo hiệu quả của DNNN, là giải pháp tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, năng động, bình đẳng – qua đó giúp thực thi có hiệu quả những quy định của Luật Cạnh tranh (2004).
Với mục đích tìm hiểu một cách toàn diện về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và ảnh hưởng của tiến trình CPH DNNN đối với việc đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống, người viết đã chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp, khoá học 2003 – 2007.
64 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận của cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta được khởi đầu bằng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) với việc thừa nhận kinh tế nhiều thành phần và chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn trong nó những phức tạp,đòi hỏi nhất định. Chấp nhận chuyển sang nền kinh tế thị trường là chấp nhận sự điều tiết thị trường bằng những quy luật của nó - một điều rất xa lạ với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đó. Các quy luật như: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh ... đã trở thành “những bàn tay vô hình” tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường mà ở đó lợi nhuận và hiệu quả được xem là mục tiêu, điều kiện đồng thời là lý do tồn tại hay không tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, cạnh tranh cũng xuất hiện như một hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu trên thị trường. Nó diễn ra trên mọi mặt của đời sống kinh tế và trở thành yếu tố quan trọng mà các doanh nghiệp buộc phải quan tâm.
Từ năm 1995, với việc tham gia ASEAN, nước ta bắt đầu tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế một cách toàn diện và ngày càng sâu rộng hơn đánh dấu bằng việc tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), ký kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) và mới đây là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quá trình này đã làm thay đổi một cách cơ bản vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế .
Đối xử bình đẳng giữa các nước bạn hàng, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài là một trong những cam kết cơ bản trong AFTA, APEC, BTA và WTO. Các cam kết sẽ tăng thêm sức ép cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu, với doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này sẽ đặt các doanh nghiệp trong nước cũng như toàn bộ nền kinh tế trước những thách thức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, thể chế pháp lý ở nước ta lúc này vẫn còn nhiều bất cập trong việc đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, đang hạn chế doanh nghiệp tham gia thị trường và cạnh tranh. Để doanh nghiệp trong nước chuẩn bị cho quá trình hội nhập, bước vào cạnh tranh quốc tế gay gắt khi các cam kết quốc tế có hiệu lực đầy đủ, nhà nước ta cần xây dựng chính sách cạnh tranh để tạo ra và duy trì môi trường cạnh tranh tích cực trên thị trường trong nước.
Đứng trước những đòi hỏi cấp bách đó, tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khoá XI ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh được thông qua sau 14 lần chỉnh sửa. Có thể nói, sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội, trở thành công cụ điều chỉnh các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Có người đã nhận xét, sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 chứng tỏ lỗ hổng cuối cùng trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã được khắc phục.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, ỷ lại vào Nhà nước, tỏ ra kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì những yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đây là một thực tế khó khăn trong việc đưa các quy định của Luật Cạnh tranh vào cuộc sống.
Vậy làm thế nào để chính sách cạnh tranh được thực thi một cách có hiệu quả, tạo cạnh tranh năng động trên thị trường? Một trong những vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải cách DNNN.Từ lâu, cải cách DNNN là mối quan tâm của Đảng và nhà nước ta với nhiều giải pháp được thực hiện trong từng thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho thấy: Cổ phần hoá (CPH) là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. CPH là giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng câo hiệu quả của DNNN, là giải pháp tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, năng động, bình đẳng – qua đó giúp thực thi có hiệu quả những quy định của Luật Cạnh tranh (2004).
Với mục đích tìm hiểu một cách toàn diện về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và ảnh hưởng của tiến trình CPH DNNN đối với việc đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống, người viết đã chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp, khoá học 2003 – 2007.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây có một số bài viết, công trình nghiên cứu khoa học tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của cạnh tranh nói riêng và CPH DNNN nói chung. Mỗi công trình khoa học có mục đích nghiên cứu khác nhau, do vậy cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu cũng khác nhau. Nhưng chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu CPH DNNN trên phương diện như một giải pháp thực thi Luật Cạnh tranh trong cuộc sống. Vì vậy, nội dung, phạm vi nghiên cứu đề tài này không trùng lặp với các công trình đã được nghiên cứu trước đó.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về cạnh tranh, từ đó khẳng định sự cần thiết của việc CPH DNNN đối với quá trình thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn cạnh tranh và CPH DNNN, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những điểm còn hạn chế và cần khắc phục.
- Mục đích nghiên cứu: Đi sâu nghiên cứu tình hình cạnh tranh, tình hình CPH DNNN ở Việt Nam hiện nay, qua đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa chính sách cạnh tranh và chính sách về CPH DNNN .Chỉ ra vai trò của CPH DNNN đối với quá trình đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống. Đánh giá đúng tính chất, thực trạng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và sự cần thiết của CPH DNNN trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Từ đó kết hợp với cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN nhằm thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được người viết nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và thực thi pháp luật kinh tế nói chung trong đó co pháp luật cạnh tranh.
Ngoài ra đề tài cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn được các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra, những tài liệu đã được công bố trên những tạp chí, bài viết, bài báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành, các cơ quan từ hoạt động đến thực tiễn.
Người viết đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, thống kê, quy nạp…để rút ra những kết luận khoa học của mình.
5. Cơ cấu luận văn
Luận văn bao gồm: Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Chương II: Thực trạng về cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương III: Một số đề xuất đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh.
Trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành khoá luận này, người viết đã có nhiều cố gắng làm việc một cách nghiêm túc. Nhưng do đây là lần đầu tiên tìm hiểu, làm quen với chủ đề này, nên khó tránh khỏi những bỡ ngỡ và thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của quý thầy cô, bạn bè và những ai quan tâm tới vấn đề này để đề tài được hoàn thiện sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CẠNH TRANH VÀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Khái quát chung về cạnh tranh và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.1. Cạnh tranh - động lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường sẽ làm thay đổi về căn bản vai trò của Nhà nước trong thị trường. Có những điều được coi là hiển nhiên trong nền kinh tế kế hoạch hoá đã trở nên không phù hợp với nền kinh tế thị trường và ngược lại, có điều không được chấp nhận trong kinh tế tập trung lại thích hợp trong kinh tế thị trường - cạnh tranh là một trong những phạm trù như vậy.
Nền kinh tế thị trường hiểu một cách đơn giản nhất là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Ở đó, sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai được giải quyết do yêu cầu khách quan của thị trường. Cơ chế thị trường được hiểu là tổng thể các nhân tố cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, nền kinh tế thị trường khi vận hành cũng phải tuân theo những quy luật khách quan riêng của mình, đó là quy luật cạnh tranh.
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cho đến nay, về mặt kinh tế đa số các quốc gia trên thế giới đều đi theo con đường kinh tế thị trường. Thừa nhận với nền kinh tế thị trường cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận các quy luật của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh là quy luật chi phối mạnh mẽ nhất mọi hoạt động của nền kinh tế thị trườn. Nhận thức được quy luật cạnh tranh, những vấn đề liên quan đến cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với Nhà nước – chủ thể có nhiệm vụ điều tiết nền kinh tế thị trường, đối với các thành phần trong nền kinh tế thị trường với tư cách là các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình cạnh tranh. Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của doanh nghiệp.
Về mặt thuật ngữ, cạnh tranh (compete. đgt) tên tiếng Anh (competition) được hiểu là sự tranh đua đẻ giành ưu thế về phía mình trong một lĩnh vực nào đó.Theo cuôn từ điển Kinh doanh, xuất bản năm 1992 ở Anh, cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa như sau: ''Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình''.Theo từ điển Cornu của Pháp, thì cạnh tranh (concurrence) được hiểu là ''chạy đua trong kinh tế, hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau là đối thủ của nhau cung ứng hàng hoá, dịch vụ, nhằm làm thoả mãn nhu cầu giống nhau vối sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được họăc để mầt đi một lượng khách hàng thường xuyên''. ''Chạy đua trên thị trường mà cấu trúc và sự vận hành của thị trường đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà cung cấp vối bên kia là những người sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hoá họăc dịch vụ:các hàng hoá và dịch vụ này được tự do tiếp cận trong điều kiện các quyết định kinh doanh phải là hệ quả của áp lưc hoặc do nhữnh ưu đãi do pháp luật mang lại''[15, tr. 11].Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh là ''hoạt động tranh đua giữa những người sản xuât hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bổi quan hệ cung cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lội nhất...''[14, tr. 375] . Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về cạnh tranh, song nhìn chung dưới góc độ kinh tế, cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua của các thành viên của một thị trường hàng hoá, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị phần của một thị trường cụ thể [22].
Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Với tư cách là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại dưới những tiền đề kinh tế và pháp lý nhất định mà những tiền đề đó chỉ có thể có trong điều kiện kinh tế thị trường. Về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình thành trên cơ sở tiền đề là có sự tham gia của các thành viên thương trường, có cuộc đua chạy mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và chúng đều diễn ra trên một thị trường hàng hoá cụ thể. Ví dụ: vì mục tiêu lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Xét về phương diện pháp lý, cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong điều kiện pháp luật thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thương mại và theo đó là sự tự do kinh doanh và quyền tự chủ của các nhân được hình thành và đảm bảo.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh, các tín hiệu giá cả, lợi nhuận tạo ra sự kích thích để các doanh nghiệp chuyển nguồn lực từ nơi tạo ra giá trị thấp hơn sang nơi giá trị cao hơn. [16, tr. 17].
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng như: đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu; hướng dẫn việc sử dụng các nhân tố vào sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất, tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với mọi sự biến động của nhu cầu và công nghệ sản xuất, cạnh tranh tác động tích cực đến sự phân phối thu nhập. Tầm quan trọng của những chức năng này có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, tuỳ theo việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi chức năng, người ta xây dựng mô hình chính sách cạnh tranh khác nhau.
Cạnh tranh điều chỉnh cung – cầu hàng hoá trên thị trường: khi một cung hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những chủ cơ sở kinh doanh kinh doanh nào đủ khả năng cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có thể tồn tại được. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi một cung hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá sẽ trở nên khan hiếm trên thị trường, giá cả tăng tạo nên lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó, người kinh doanh sẽ đầu tư vốn, xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàn toàn tự nhiên, không theo và không cần theo bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan hành chính Nhà nước.
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mức độ của cạnh tranh đã trở lên gay gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình luôn phải tính toán để vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh của mình. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh có khả năng tạo sức ép để chống trì trệ, khắc phục suy thoái và buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả [22].
Trong cạnh tranh, tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị thua lỗ, thậm chí phá sản. Đối với xã hội, phá sản doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực, vì các nguồn lực của xã hội được chuyển sang cho các nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà là sự huỷ diệt sáng tạo [16, tr. 34]. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội hơn là phá sản. Qua đây ta thấy, cạnh tranh làm cho nền kinh tế luôn có khả năng cơ cấu lại một cách năng động.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới và theo kinh tế học Adam Smith gọi là “bàn tay vô hình”
1.2. Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Khái niệm CPH DNNN
1.2.1.1. Khái niệm DNNN
DNNN được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước khác nhau do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê với mục đích khác nhau. Một số nước thống kê DNNN có thể liệt kê cả những tổ chức nghiên cứu mà không hoạt động thương mại. Trong khi đó, có những quốc gia khi thống kê DNNN lại bỏ qua những DNNN do chính quyền địa phương quản lý. Tuy nhiên, đa số các nước đều có những điểm chung khi nói đến DNNN - Đó là vấn đề sở hữu của Nhà nước.
Định nghĩa DNNN được sử dụng khá phổ biến là định nghĩa trong Báo cáo của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNIDO). Theo UNIDO, DNNN được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước hoặc do Nhà nước kiểm soát, có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, DNNN bao gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ phần lớn cổ phần và cả những doanh nghiệp tuy Nhà nước không giữ phần lớn cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà nước nắm giữ quyền chi phối, các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các bộ ngành.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kỳ tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu Nhà nước, thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường và để DNNN hoạt động có hiệu quả hơn, năm 1995, Nhà nước ta đã ban hành Luật DNNN, thể chế hoá nhiều quan điểm mới về loại hình doanh nghiệp này.
Luật DNNN 1995 định nghĩa DNNN như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao, DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính chính trên lãnh thổ Việt Nam”
Khái niệm DNNN được phát triển tương đối sâu trong định nghĩa và các quy định của Luật DNNN 2003. Điều 1 – Luật DNNN 2003 quy định: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Đến Luật Doanh nghiệp 2005 thì DNNN được định nghĩa như sau: “DNNN là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ” [ K22 - Điều 4]
Như vậy, Luật DNNN 2003 và Luật Doanh nghiệp 2005 đã đa dạng hoá các DNNN trên tiêu chí quyền chi phối chứ không phải tiêu chí sở hữu trước đây.
1.2.1.2. Khái niệm và bản chất của CPH DNNN
CPH DNNN bắt đầu thực hiện thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng và sau đó được thực hiện với quy mô rộng hơn. Thực ra, việc CPH được đề cập từ những năm 1987, song thực tế lúc đó chưa cho phép triển khai giải pháp này. Bởi ở nước ta vào thời điểm này vẫn tồn tại nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện, tiền đề để cải cách triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức, quản lý và hoạt động của DNNN, đó là vấn đề sở hữu. CPH doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vi mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. CPH DNNN là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩ đến.
Xét ở khía cạnh chính trị: CPH DNNN không nhằm mục tiêu tư nhân hoá nền kinh tế, mặc dù CPH có chứa đựng yếu tố “tư nhân hoá”. CPH được coi là quá trình tư nhân hoá một phần. CPH không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu Nhà nước trong các cơ sở kinh tế công, mà chỉ giảm mức độ sở hữu, tức là chỉ có sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi về chất trong các cơ sở kinh tế này [20, tr. 135]. CPH là giải pháp làm cho sở hữu sở hữu trong DNNN từ ''ảo'' đến ''thực'', chuyển từ sự kiểm soát bằng “chế độ quan liêu” sang sự kiểm soát thông qua lợi ích của các chủ sở hữu thực. Khác với làn sóng tư nhân hoá ở các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu đang chuyển các DNNN từ sở hữu chung của xã hội sang sở hữu của cá nhân, CPH DNNN ở Việt Nam nhằm thu hút sự t