Xu thế lý luận hiện nay của Mô hình Đô thị nén là triết lý phát triển đô thị bền vững được đưa ra trước thực trạng “phát triển đô thị lan tỏa thiếu
trật tự” trên quy mô toàn cầu,. Xu thế này diễn ra chủ
yếu tại các đô thị lớn nơi có nhu cầu cao hơn về quỹ đất
thương mại, nhà ở, dịch vụ phục vụ cho các hoạt động
kinh tế của đô thị. Tại Việt Nam, đô thị nén đa trung tâm
xuất hiện tại các đô thị có quy mô siêu lớn, cụ thể là
tại Hà Nội và TP.HCM với bán kính mở rộng và duy trì
mật độ cao trong khoảng cách 1-15km. Cấu trúc không
gian này sẽ tiếp tục mở rộng nhưng mức độ nén còn phụ
thuộc vào tiến trình hình thành mạng lưới đường bộ, và
hệ thống metro tàu điện tại hai thành phố trên.
Mô hình đô thị nén được đánh giá là công cụ lựa chọn
phát triển đô thị, đất đai xây dựng, tiết kiệm hiệu quả
với phương thức giao thông công cộng làm nền tảng, sử
dụng đất hỗn hợp và xây dựng mật độ cao nhằm giảm
nguy cơ phát triển tràn lan, nhẩy cóc gây hiện tượng hoang tàn, lãnh phí tài nguyên cảnh quan, văn hóa tại các
vùng ngoại thành, nông thôn. Bên cạnh những ưu điểm,
mô hình đô thị nén cũng có những ảnh hưởng tiêu cực
như: tắc ngẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, đảo nhiệt,
chất lượng sống, nhu cầu năng lượng cao, không gian
mở bị thiếu, rủi ro cao khi cao như các hiện tượng thiên
tai như Tshunami, động đất, lụt, và hỏa hoạn. Do đó cần
xem xét mô hình phù hợp tạo cho đô thị có sức chống
chịu với đa dạng loại hình rủi ro.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình và quản lý phát triển đô thị nén bền vững Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SË 94 . 201844
Xu thế lý luận hiện nay của Mô hình Đô thị nén là triết lý phát triển đô thị bền vững được đưa ra trước thực trạng “phát triển đô thị lan tỏa thiếu
trật tự” trên quy mô toàn cầu,... Xu thế này diễn ra chủ
yếu tại các đô thị lớn nơi có nhu cầu cao hơn về quỹ đất
thương mại, nhà ở, dịch vụ phục vụ cho các hoạt động
kinh tế của đô thị. Tại Việt Nam, đô thị nén đa trung tâm
xuất hiện tại các đô thị có quy mô siêu lớn, cụ thể là
tại Hà Nội và TP.HCM với bán kính mở rộng và duy trì
mật độ cao trong khoảng cách 1-15km. Cấu trúc không
gian này sẽ tiếp tục mở rộng nhưng mức độ nén còn phụ
thuộc vào tiến trình hình thành mạng lưới đường bộ, và
hệ thống metro tàu điện tại hai thành phố trên.
Mô hình đô thị nén được đánh giá là công cụ lựa chọn
phát triển đô thị, đất đai xây dựng, tiết kiệm hiệu quả
với phương thức giao thông công cộng làm nền tảng, sử
dụng đất hỗn hợp và xây dựng mật độ cao nhằm giảm
nguy cơ phát triển tràn lan, nhẩy cóc gây hiện tượng ho-
ang tàn, lãnh phí tài nguyên cảnh quan, văn hóa tại các
vùng ngoại thành, nông thôn. Bên cạnh những ưu điểm,
mô hình đô thị nén cũng có những ảnh hưởng tiêu cực
như: tắc ngẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, đảo nhiệt,
chất lượng sống, nhu cầu năng lượng cao, không gian
mở bị thiếu, rủi ro cao khi cao như các hiện tượng thiên
tai như Tshunami, động đất, lụt, và hỏa hoạn. Do đó cần
xem xét mô hình phù hợp tạo cho đô thị có sức chống
chịu với đa dạng loại hình rủi ro.
Lý luận về mô hình đô thị nén
n Trên thế giới đã có rất nhiều lý luận về mô hình đô thị
nén và thực tiễn triển khai. Đô thị nén được phát triển
và mở rộng ra trong suốt quá trình phát triển đô thị, từ
xuất phát điểm về lý luận mô hình không gian, xây dựng
tập trung, mật độ cao, đa dạng hoạt động và không gian
sang mô hình bảo vệ môi trường, quỹ đất canh tác, tài
nguyên cảnh quan và dần hướng tới tiết kiệm năng lượng,
chất lượng cuộc sống và thịnh vượng của đô thị, hướng tới
ba trụ cột quan trọng của phát triển bền vững là phát triển
kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội.
n Xây dựng chỉ tiêu về mật độ tối thiểu là công việc rất
khó khăn không chỉ về yếu tố kỹ thuật mà còn phụ thuộc
vào điều kiện đặc thù của đô thị. Tại London, quy hoạch
sử dụng đất xác định mật độ tối thiểu, nhưng chỉ tiêu quá
thấp và do đó đã không hỗ trợ được phát triển mật độ cao
như mong muốn. Trong Quy hoạch tổng thể Vùng đô thị
Paris, mật độ tối thiểu cho những khu vực đô thị mới là
35 nhà/ha. Do quy định này tạo ra mật độ cao hơn so với
dự án phát triển tại vùng ven đô, nên cộng đồng tại đây
đã không ủng hộ, họ cho rằng những quy định như vậy
sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sống khu vực đó. Cuối cùng
là, quy định về mật độ tối thiểu sẽ không phù hợp đối với
thành phố mà ở đó thị trường khuyến khích chủ đầu tư
phát triển mật độ cao (Hồng Kông, Trung Quốc). Mật độ
xây dựng khác nhau về ngưỡng còn phụ thuộc vào văn
MÔ HÌNH & QUẢN LÝ
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ NÉN BỀN VỮNG VIỆT NAM
DIỄN ĐÀN
NCS. LÊ KIEàU THANH
Trưởng phòng Quản lý Khoa học kỹ thuật - VIUP
45SË 94 . 2018
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
hóa của từng quốc gia. Đối với Isarael, mật
độ 290 nhà/ha được công nhận là cao, còn
ở Hà Lan là 100 nhà/ha là cao (Churchman
1999). Quy định trong phân khu sử dụng đất
về diện tích tối thiểu của lô đất cũng là một
công cụ hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu sử
dụng và chính sách về phát triển đô thị nén.
n Thành phố sử dụng công cụ xác định
ngưỡng phát triển bằng ranh giới tăng trưởng
đô thị, quy định đối với khu vực xây dựng và
mật độ xây dựng (Gennario et al., 2009). Tuy
nhiên, công cụ trên được đánh giá đã tạo ra
những tác dụng ngoài mong muốn, dự án
phát triển nhảy cóc do thiếu hỗ trợ của công
cụ khuyến khích phát triển tại khu vực hiện
hữu, để đảm bảo khu vực hiện hữu cung cấp
đủ nhu cầu phát triển của thành phố. Tính
hiệu quả của công cụ phụ thuộc vào sự ổn
định và tính linh hoạt vừa đảm bảo tính dài
hạn để định hướng cho phát triển, vừa phải
được điều chỉnh phù hợp điều kiện thay đổi
(tăng trưởng hoặc khủng hoảng kinh tế).
Đảm bảo việc điều chỉnh định kỳ ranh giới
tăng trưởng thông qua việc đánh giá, chấm
điểm sự cần thiết mở rộng. Chính quyền
trung ương yêu cầu đô thị phải rà soát khả
năng cung cấp trong ranh giới định kỳ 5 năm/
lần cho nhu cầu sử dụng đất trong 20 năm.
Thông qua hai chỉ số về giám sát sử dụng đất
đai là thống kê tổng quỹ đất trống và tốc độ
tăng của mật độ xây dựng (refill rate).
Thành phố Portland đã sử dụng Mô hình
máy tính để dự báo “ngưỡng phát triển”.
Ngưỡng xác định số nhà ở hoặc việc làm có
được trong thành phố dưới những quy định,
quy chuẩn hiện hành với xu thế thị trường
không có đột biến.
Tạo ra khu vực phát triển mật độ chất lượng;
tính đa dạng và hỗn hợp giữa các loại hình
nhà ở, sở hữu và người sử dụng là những
bước đầu tiên trong quy trình thiết kế chất
lượng các dự án tái thiết (Roger 2005). Khu
vực sẽ là vừa đảm bảo yêu cầu về thẩm
mỹ và kinh tế bởi vì thành phố sẽ là những
nơi thu hút những công ty của các tập đoàn
xuyên quốc gia, những lực lượng lao động
chất lượng cao, sáng tạo.
Theo Tallon, A và Brombey, R (2004) Thế
hệ trẻ tìm kiếm những giá trị về văn hóa,
giao lưu xã hội của đời sống đô thị, trong
khi những người lớn tuổi thì đánh giá cao giá
trị về cảnh quan, môi trường. Có nghĩa sản
phẩm của dự án phát triển đô thị cần tạo ra
sản phẩm và tiếp thị thông tin với đa dạng
khách hàng có sở thích khác nhau. Quan
điểm loại bỏ những yếu tố văn hóa - xã hội
trong không gian đô thị, và đơn giản chỉ là
công tác thiết kế hình thái xây dựng sẽ là
chưa đủ để có thể tạo ra một thành phố phát
triển bền vững. Những dự án tái thiết cần có
phương pháp tiếp cận làm giảm thiểu những
tác động tiêu cực về xã hội và văn hóa.
UNESCO đã đưa ra mô hình Vùng sinh
quyển để tạo ra tính chống chịu cho các
thành phố, bao gồm năng lượng, nước, lọc
khí, điều kiện vi khí hậu, giảm ồn, xử lý nước
thải, giải trí và văn hóa Stanvliet, R và Par-
nell, S. (2006).
Đã có nhiều những chứng minh khả năng sử
dụng năng lượng tiết kiệm, đồng thời giảm
phát thải, tuy nhiên vẫn còn có những thảo lu-
ận về chính sách đô thị nén liệu có những kết
quả và đóng góp vào chất lượng môi trường.
Chính sách đô thị nén được coi như là
công cụ quy hoạch để bảo vệ môi trường
và những tiềm năng lợi ích kinh tế được coi
trọng hơn những yếu tố khác. Nhưng thực tế
chứng minh đô thị nén không những đóng
góp phát triển đô thị bền vững mà còn có
mối quan hệ chặt chẽ giữa đô thị nén và tăng
trưởng xanh.
Khu vực đô thị mật độ cao sẽ phụ thuộc
nhiều hơn vào giao thông thông công cộng,
đi bộ và đi xe đạp nên phát thải sẽ có xu
hướng giảm. Bên cạnh đó, hiệu quả hệ
thống GTCC cũng góp phần giảm phát thải
bên cạnh nhưng yếu tố về hình thái xây dựng
như mật độ và độ nén. Kennedy năm 2009
đã so sánh 10 thành phố trên thế giới và chỉ
ra mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa năng lượng
sử dụng cho giao thông và mật độ dân số và
cũng như vậy đối với tỷ lệ phát thải và mật độ
dân số. Taniguchi năm 2008 đã ngheien cứu
trên 38 thành phố của Nhật bản về mối quan
hệ giữa phát thải CO2 và mật độ dân số và
đưa ra nhận định về mối quan hệ mật thiết
giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch
giao thông để giảm phát thải CO2.
Quy hoạch và quản lý phát triển
đô thị
Hệ thống đô thị của Việt Nam có trên 800
đô thị với quy mô lớn, bé khác nhau và có sự
đa dạng rất lớn về mặt quy mô và tính chất.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa
lịch sử, định cư tại đô thị là rất khác nhau. Do
đó công tác điều tra xã hội học tham khảo ý
kiến cộng đồng, doanh nghiệp, nhà quản lý,
nhà nghiên cứu, tư vấn là hết sức cần thiết
để nhận diện các vấn đề phát sinh trong quá
trình phát triển riêng của từng đô thị và nâng
cao tính thực thi của các giải pháp cụ thể
theo mô hình nguyên lý.
Cụ thể, Thành phố Hà Nội:
Dự báo dân số đến năm 2020, khoảng 7,3
-7,9 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 58-
60%. Dân số đến năm 2030, khoảng 9,0-9,2
triệu người, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 65- 68%.
Đến năm 2050, dân số tối đa khoảng 10,8
triệu người, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 70-80%.
Đến năm 2020, tổng diện tích đất xây dựng
đô thị và nông thôn khoảng 128.900ha.
Trong đó đất xây dựng đô thị khoảng
73.000ha (chiếm khoảng 21,8% diện tích
tự nhiên), chỉ tiêu khoảng 160m2/người, bao
gồm: Đất dân dụng khoảng 34.200ha, chỉ
tiêu khoảng 70-75m2/người và đất ngoài dân
dụng khoảng 38.800ha.
Đến năm 2030, tổng diện tích đất xây dựng
đô thị và nông thôn khoảng 159.600ha, trong
đó đất xây dựng đô thị khoảng 94.700ha
(chiếm khoảng 28,3% diện tích tự nhiên),
chỉ tiêu khoảng 150m2/người, bao gồm đất
dân dụng khoảng 48.100ha, chỉ tiêu khoảng
80m2/người và đất ngoài dân dụng khoảng
46.600ha.
- Khu vực đô thị trung tâm được phát triển
mở rộng từ khu vực nội đô về phía Tây, Nam
đến đường vành đai 4 và về phía Bắc với khu
vực Mê Linh, Đông Anh; phía Đông đến khu
vực Gia Lâm và Long Biên.
- Dự báo dân số đến năm 2020 đạt khoảng
3,7 triệu người; diện tích đất xây dựng đô
thị khoảng 45.300ha; đất dân dụng khoảng
26.000ha, chỉ tiêu khoảng 70m2/người và đất
ngoài dân dụng khoảng 19.300ha.
-Dân số đến năm 2030 đạt khoảng 4,6
triệu người; diện tích đất xây dựng đô thị
khoảng 55.200ha; đất dân dụng khoảng
34.900ha; chỉ tiêu đất xây dựng dân dụng
khu vực nội đô khoảng 60-65m2/người, khu
vực mở rộng phía Nam sông Hồng khoảng
90-95m2/người;
- Đất ngoài dân dụng khoảng 20.300ha.
Nhận xét hiện trạng:
SË 94 . 201846
Phát triển mất cân đối giữa vùng đô thị trung
tâm và đô thị mở rộng. Tích tụ dân số của
các quận vùng lõi khiến mật độ dân số tại
các vùng này siêu cao như Hai Bà Trưng:
31.000 người/km2, Đống Đa: 29.000 người/
km2, các quận huyện khác như Sóc Sơn, Ba
Đình, Cầu Giấy cũng trên 20.000 người/km2.
Nếu so với Thủ đô Tokyo (Nhật Bản) thì dân
số Hà Nội chỉ bằng 1/3. Tuy nhiên, họ vẫn có
sự phân bố hợp lý, vì vậy ở đây là điều hòa
dân số. Mỗi một khu đô thị mới mọc lên, mỗi
một trung tâm thương mại chuẩn bị ra đời thì
cân nhắc xem đặt ở vị trí nào cho phù hợp.
Kinh nghiệm về khuyến khích quy
hoạch chiến lược cho đô thị lớn
Quy hoạch tổng thể Paris (SDRIF) đã xác
định mục tiêu phát triển đô thị với tiêu chí về
mật độ tối thiểu và đưa ra một loạt các công
cụ. Paris là một ví dụ tốt về việc tham gia,
đồng thuận của 1300 chính quyền đô thị, ch-
uẩn bị trong quá trình lập quy hoạch về phát
triển theo mô hình đô thị nén.
Chiến lược của Melbourne là tạo ra khu
vực tăng trưởng nơi tập trung nhiều dự án
phát triển đô thị mới và hình thành Cực tăng
trưởng đô thị là tổ chức để giúp cho các hoạt
động về quy hoạch và phát triển tại những
khu vực tăng trưởng đề ra.
Kinh nghiệm về phát triển mật độ
cao và xây dựng tập trung
Quy hoạch toàn diện Stockholm mục tiêu
trọng điểm là tạo ra những ưu tiên phát triển
trong khu vực đô thị hiện hữu với Concept
là “xây dựng cấu trúc thành phố hướng nội”.
Ví dụ như áp dụng thuế để hạn chế sử dụng
xe ô tô có thể sẽ xong hành với quy định
về giới hạn ranh giới tăng trưởng. Nó có
tác dụng làm cho cộng đồng và nhà đầu tư
sẽ hành động dựa trên những quy luật thị
trường và sẽ hạn chế phát triển tại khu vực
ven đô. Áp dụng chính sách thuế đối với
người sử dụng GTCC có thể có những tác
dụng tích cực tới chính sách tăng mật độ, xây
dựng nén và đầu tư GTCC nhằm giảm việc
sử dụng giao thông cơ giới cá nhân.
Kinh nghiệm về phát triển dự án
khu dân cư sinh thái
Phát triển các khu đô thị mới là nhu cầu
rất cần thiết tại hầu hết các quốc gia đang
phát triển và tăng trưởng. Những phát triển
mở rộng có trật tự và tăng mật độ tại khu vực
làng xóm hiện hữu cũng là những điểm tương
đồng với chính sách phát triển đô thị nén. Tại
các cấp khu dân cư (khu dân cư sinh thái/
làng sinh thái) chính phủ Pháp đã thực hiện
Chương trình khu dân cư sinh thái của Quốc
gia, đây là một ví dụ hay có thể áp dụng đối
với khu vực tái thiết đô thị hoặc khu đô thị
mới. Đặc điểm của khu dân cư này là mật độ
cao, tiếp cận thuận tiện tới GTCC, có thiết
kế đô thị chất lượng cao, hệ thống trung tâm
năng lượng trung tâm làm mát hoặc sưởi ấm
toàn khu, và các công nghệ giảm phát thải
CO2. Các khu dân cư sinh thái này thường có
mật độ cao hơn so với khu dân cư hiện hữu,
do đó giúp cho tăng mật độ nói chung.
Khu đô thị mới Songdo, Hàn quốc được
công nhận là khu dân cư phát thải thấp, cần
có đánh giá tác động của dự án phát triển đô
thị mới quy mô lớn như vậy sẽ tác động ntn
tới cấp đô thị, thủ đô Seoul.
Kinh nghiệm về kiểm soát mật
độ xây dựng tối thiểu cho khu
vực mới
Yêu cầu mật độ tối thiểu và tối đa đều cần
thiết vì để cho phép bảo vệ xây dựng quá
mức hoặc tạo ra những ảnh hưởng về ăch tắc
giao thông, thiếu hệ thống hạ tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội, mất các không gian mở,
không gian xanh...
Nếu các thành phố có thể xây dựng được các
khu đô thị nén đúng nghĩa, việc kiểm soát
năng lượng cho khu vực đó cũng trở nên dễ
dàng (Salvador 2016). Nhật Bản đã công bố
Hướng dẫn về phát triển thành phố Phát thải
thấp là một trong những tài liệu chính sách để
khuyến khích chính quyền địa phương hướng
tới phát triển đô thị phát thải thấp. Vào tháng
8 năm 2010, MLIT đã xây dựng “Hướng dẫn
cho xây dựng thành phố phát thải thấp”.
Cách tiếp cận của phát triển đô thị mới
Songdo (Hàn Quốc) là tính tổng thể và thống
nhất về công nghệ, tạo ra thành phố tương
lại và thành phố công nghệ cao. Thiết kế
công trình xanh, như mái xanh, năng lượng
mặt trời, các công trình đạt tiêu chuẩn LEED.
Chiếu sáng công cộng LEED được sử dụng.
Giám sát được thực hiện nhằm giảm hiệu
ứng đảo nhiệt, cải thiện quản lý nước thải,
và thu gom nước mưa. Những nhà thiết kế
hàn quốc cũng quy hoạch tận dụng ưu việt
của đầu tư băng rộng để kết hợp công nghệ
thông tin, truyền thông và công nghệ sạch
để cung cấp công nghệ máy tính cho toàn
thành phố một cách rộng rãi.
Đặc điểm đô thị hóa thông qua
trưởng dân số và đất đai tại Việt
Nam
Trong giai đoạn 2004-2015, đối với năm
thành phố trực thuộc trung ương, xu thế tăng
mật độ cư trú là có duy nhất thành phố Cần
thơ là tăng và bình quân đất ở đô thị duy trì
từ 30m2/ng, TP.HCM có mật độ cư trú không
đổi, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2004-
2010 thì giảm, nhưng lại tăng trở lại giai đoạn
2010-2015, thành phố Đà Nẵng mật độ cư
trú giảm và đất ở bình quân đầu người tăng,
thành phố Hà Nội có mật độ cư trú giảm 20%
và bình quân đất ở tăng 20%.
Có thể thấy qua số liệu trên một số quan
sát sau:
n Mật độ cư trú bình quân của đô thị phụ
thuộc vào các yếu tố về tốc độ tăng dân số
trung bình đô thị, tốc độ cung cấp quỹ nhà
ở mới tại các đô thị đó, thị hiếu về nhà ở tại
các đô thị, thu nhập trung bình của dân cư
tại các đô thị.
n Nhìn chung, giai đoạn 2004-2015, bốn đô
thị trừ thành phố Hà Nội đều có dân số đô
thị tăng trưởng từ 1,5% cho đến 2,1%. Hai
thành phố lớn nhất đều có tốc độ tăng trưởng
thành phố cao, TP.HCM là đô thị lớn nhưng
vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất trên
2%, thành phố Hà Nội có con số tăng trưởng
cao nhất nhưng cũng một phần từ sát nhập
ranh giới hành chính năm 2008.
Tăng trưởng dân số giai đoạn 2004-2015 của 05 thành phố trực thuộc trung ương
Đề tài NCKH trọng điểm BXD, Mô hình và quản lý phát triển đô thị nén bền vững
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
47SË 94 . 2018
Tổng quan mật độ cư trú và đất xây dựng đô thị BQ các đô thị loại I năm 2015
Đề tài NCKH trọng điểm BXD, Mô hình và quản lý phát triển đô thị nén bền vững
Qua số liệu tổng quan bảng, hai thành phố
lớn nhất là Hà Nội và TP.HCM đều có tốc
độ tăng trưởng dân số như nhau giai đoạn
2010-2015, nhưng thành phố Hà Nội có tốc
độ phát triển đất ở cao hơn so với TP.HCM
với mật độ cư trú thấp hơn nhiều so với
TP.HCM.
Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng có tốc độ
tăng trưởng dân số lần lượt là 1,67%, 1,53%
và 1%, lại thể hiện xu thế khác, Đà Nẵng và
Cần Thơ phát triển đất ở nhanh hơn so với
Hải phòng nhưng mật độ cư trú lại thấp và
bình quân đất ở đầu người cao hơn so với
Hải Phòng.
Theo số liệu phân tích tổng hợp ở trên hầu
hết các đô thị đều có tăng trưởng (+) về đất
đai xây dựng, trong khí đó tỷ lệ dân cư không
phải tất cả đều tăng, các đô thị Nam Định,
Vinh, Quy Nhơn, Diễn Châu, Quảng Ngãi có
tăng trưởng dân số âm (-).
Tổng quan mật độ cư trú và đất ở đô thị bình quân các đô thị trực thuộc TW năm 2015
Đề tài NCKH trọng điểm BXD, Mô hình và quản lý phát triển đô thị nén bền vững
Tổng quan về mối quan hệ tăng trưởng đất đai và dân số các đô thị loại I năm 2015
Đề tài NCKH trọng điểm BXD, Mô hình và quản lý phát triển đô thị nén bền vững
SË 94 . 201848
Khoảng cách và phân bố dân cư
của các đô thị lớn
Trong nghiên cứu về khoảng cách và phân
bố dân cư của các đô thị lớn, các đô thị có
cấu trúc nén khác nhau. Hầu như các đô thị
có quy mô trên 1 triệu dân thì phân bố dân
cư mật độ tập trung trong bán kính 10km.
Các đô thị nhỏ hơn thì tập trung trong vòng
bán kính 1-5km.
Tất cả các đô thị đều có mật độ dân cư cao
trong bán kính 1-5km, cao nhất là tha