Nghiên cứu được tiến hành nhằm phát hiện mối liên quan giữa đột biến gen ATP7B với ceruloplasmin
huyết thanh và đồng niệu 24 giờ ở bệnh Wilson. Có 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh Wilson
theo tiêu chuẩn của Ferenci mang đột biến gen được lựa chọn vào nghiên cứu. Kỹ thuật giải trình tự gen
được sử dụng để xác định đột biến trên gen ATP7B. Nghiên cứu đã phát hiện được bệnh nhân Wilson mang
nhiều hơn 2 alen đột biến và mang đột biến dạng vô nghĩa/ lệch khung trên gen ATP7B có nồng độ
ceruloplasmin huyết thanh thấp và đồng niệu 24 giờ cao hơn nhóm mang 1 alen đột biến và nhóm mang
dạng đột biến sai nghĩa/đột biến vùng 5'UTR.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa đột biến gen ATP7B với Ceruloplasmin huyết thanh và đồng niệu 24 giờ ở bệnh nhân Wilson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐỘT BIẾN GEN ATP7B
VỚI CERULOPLASMIN HUYẾT THANH VÀ ĐỒNG NIỆU 24 GIỜ
Ở BỆNH NHÂN WILSON
Đỗ Thanh Hương, Trần Huy Thịnh, Nguyễn Văn Liệu, Trần Vân Khánh
Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu được tiến hành nhằm phát hiện mối liên quan giữa đột biến gen ATP7B với ceruloplasmin
huyết thanh và đồng niệu 24 giờ ở bệnh Wilson. Có 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh Wilson
theo tiêu chuẩn của Ferenci mang đột biến gen được lựa chọn vào nghiên cứu. Kỹ thuật giải trình tự gen
được sử dụng để xác định đột biến trên gen ATP7B. Nghiên cứu đã phát hiện được bệnh nhân Wilson mang
nhiều hơn 2 alen đột biến và mang đột biến dạng vô nghĩa/ lệch khung trên gen ATP7B có nồng độ
ceruloplasmin huyết thanh thấp và đồng niệu 24 giờ cao hơn nhóm mang 1 alen đột biến và nhóm mang
dạng đột biến sai nghĩa/đột biến vùng 5'UTR.
Từ khóa: Bệnh Wilson, gen ATP7B, đột biến gen, alen đột biến
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Wilson được biết đến là bệnh thoái
hóa gan - nhân đậu, được tác giả Kinnear
Wilson mô tả lần đầu tiên vào năm 1912 [1].
Cho đến nay, bệnh được phát hiện ở hầu hết
các quốc gia và các chủng tộc trên thế giới với
tỷ lệ mắc là 1/30.000 trẻ sinh ra. Đây là bệnh
di truyền, đột biến gen lặn trên nhiễm sắc thể
thường 13q14.3, mã hóa gen ATP7B gây
thiếu hụt enzyme ATPase typ P (P-ATPase)
[2]. Gen ATP7B gồm 21 exon chiều dài
khoảng 80kb, mã hóa cho phân tử protein
1465 acid amin. Gen này có vai trò điều hòa
quá trình hấp thu, phân bố và thải trừ đồng
trong cơ thể. Khi đột biến gen xảy ra sẽ gây
rối loạn quá trình chuyển hóa đồng, đặc biệt là
giảm bài tiết đồng qua đường mật. Lượng
đồng ứ lại trong cơ thể sẽ lắng đọng dần trong
các tổ chức: gan, não (chủ yếu ở nhân xám
trung ương), mắt, da, thận, xương... và gây ra
các triệu chứng đa dạng trên lâm sàng. Phân
tích mối liên quan giữa kiểu gen ATP7B và sự
biến đổi các chỉ số sinh học giúp bác sỹ lâm
sàng tiên lượng, chẩn đoán và điều trị sớm
các thể bệnh Wilson.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên có hai trường
hợp bệnh nhân bị bệnh Wilson được phát hiện
mang đột biến gen Arg778Leu vào năm 2010
[3]. Các nghiên cứu sau đó tiếp tục xác định
đột biến ở một số vùng trọng điểm và hoàn
thiện quy trình xác định đột biến gen ATP7B
[4; 5]. Như vậy, số lượng nghiên cứu đột biến
gen ATP7B ở Việt Nam còn hạn chế và chưa
có nghiên cứu đầy đủ về mối tương quan giữa
kiểu gen ATP7B và kiểu hình của bệnh. Do
vậy, đề tài tiến hành nhằm tìm mối liên quan
giữa đột biến gen ATP7B với nồng độ
ceruloplasmin huyết thanh và đồng niệu 24
giờ ở bệnh nhân Wilson.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Địa chỉ liên hệ: Đỗ Thanh Hương - Bộ môn Nhi - Trường
Đại học Y Hà Nội
Email: dothanhhuong@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 27/7/2018
Ngày được chấp thuận: 04/9/2018
TCNCYH 115 (6) - 2018 39
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định
bệnh Wilson theo thang điểm Ferenci đều có
tổng số điểm WD ≥ 4, với biểu hiện tăng
enzym gan (AST và ALT ≥ 60 UI/l), tăng lượng
đồng trong nước tiểu 24 giờ (≥ 100µg/ngày),
ceruloplasmin huyết thanh giảm (< 20mg/dl),
có vòng Kayser-Fleischer và phân loại thể lâm
sàng theo tiêu chuẩn của Hội Gan Mật quốc tế
năm 2003 [6; 7]. Các bệnh nhân này được
điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện
Nhi trung ương.
2. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9 năm
2012 đến tháng 9 năm 2015.
3. Phương pháp
3.1. Định lượng Cerulopasmin huyết
thanh
- Lấy huyết thanh chống đông bằng EDTA.
- Sử dụng phương pháp miễn dịch đo độ
đục trên máy hóa sinh tự động Beckman
Coulter AU5800, tại Khoa Hóa sinh, Bệnh viện
Nhi Trung ương.
3.2. Định lượng đồng niệu 24 giờ
- Lấy mẫu nước tiểu 24 giờ.
- Sử dụng phương pháp quang phổ hấp
thụ nguyên tử sử dụng là graphit (GF - AAS)
trên máy tự động GFA - 7000A, tại khoa Sinh
hóa, Bệnh viện Nhi Trung ương.
3. 3. Quy trình phân tích gen ATP7B
Thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Gen -
Protein, Trường Đại học Y Hà Nội.
Lấy mẫu bệnh phẩm: 2ml máu tĩnh mạch
chống đông bằng EDTA.
Kỹ thuật tách chiết DNA từ máu ngoại vi:
DNA tổng số được tách chiết từ máu toàn
phần bằng phenol-chloroform-isopropanol (25:
24: 1).
Kỹ thuật giải trình tự gen: Toàn bộ 21 exon
của gen ATP7B được khuếch đại với các cặp
mồi đặc hiệu [2]. Các sản phẩm PCR sẽ được
tiến hành giải trình tự trực tiếp trên máy ABI
3100 Genetic Analyzer. Kết quả được thu thập
và xử lý bằng phần mềm ABI PRISM TM 3100
– Avant Data Collection, DNA Sequencing
Analysis 5.2 và BLAST NCBI.
Các gen đột biến được so sánh trên ngân
hàng gen: DNA (NG _ 008806) và mRNA (NM
_ 000053.3).
4. Xử lý số liệu
Tính chỉ số tương quan r bằng phương
pháp Kendall, phân tích mối tương quan bằng
test ANOVA (phần mềm SPSS 16.0).
4. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân hoàn toàn tự nguyện tham gia
vào nghiên cứu và có quyền rút khỏi nghiên
cứu khi không đồng ý tiếp tục tham gia vào
nghiên cứu. Bệnh nhân sẽ được thông báo về
kết quả xét nghiệm gen để giúp cho các bác
sỹ tư vấn di truyền hoặc lựa chọn phác đồ
điều trị phù hợp. Các thông tin cá nhân được
đảm bảo bí mật.
III. KẾT QUẢ
1. Nồng độ ceruloplasmin huyết thanh,
nồng độ đồng niệu 24 giờ và số alen đột
biến trên gen ATP7B
Trong nghiên cứu này, 44 bệnh nhân
Wilson mang đột biến, chia thành 4 nhóm: 5
bệnh nhân mang 1 alen đột biến; 25 bệnh
nhân mang 2 alen đột biến; 7 bệnh nhân
mang 3 alen đột biến và 7 bệnh nhân mang 4
alen đột biến.
1.1. Mối tương quan giữa nồng độ
ceruloplasmin huyết thanh và số alen đột
biến
40 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Hình 1. Phân bố nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và số alen đột biến
Kết quả về phân bố nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và số alen đột biến cho thấy, nhóm
bệnh nhân mang 4 alen đột biến có nồng độ ceruloplasmin huyết thanh trung bình thấp nhất.
1.2. Mối tương quan giữa nồng độ đồng niệu 24 giờ và số alen đột biến
Hình 2. Phân bố nồng độ đồng niệu 24 giờ và số alen đột biến
Kết quả ở hình 2 cho thấy, nhóm bệnh nhân mang 4 alen đột biến có hàm lượng đồng trong
nước tiểu cao nhất, nhóm mang 1 alen đột biến có hàm lượng đồng thấp nhất.
2. Nồng độ ceruloplasmin huyết thanh, nồng độ đồng niệu 24 giờ và dạng đột biến gen
ATP7B
Nhóm nghiên cứu gồm 44 bệnh nhân, chia thành 3 nhóm: nhóm 1 có 23 bệnh nhân không
mang alen đột biến vô nghĩa/lệch khung (chỉ mang đột biến sai nghĩa/đột biến vùng 5'UTR), nhóm
2 có 10 bệnh nhân mang 1 alen đột biến vô nghĩa/lệch khung và nhóm 3 có 11 bệnh nhân mang
2 alen đột biến vô nghĩa/lệch khung.
1.2. Mối tương quan giữa nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và dạng đột biến
TCNCYH 115 (6) - 2018 41
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Hình 3. Phân bố nồng độ ceruloplasmin
huyết thanh và dạng đột biến
Nồng độ ceruloplasmin huyết thanh trung
bình ở nhóm mang 2 alen đột biến vô nghĩa/
lệch khung thấp nhất, tiếp theo là nhóm mang
1 alen đột biến vô nghĩa/lệch khung và nhóm
đột biến sai nghĩa/đột biến vùng 5' UTR.
2.2. Mối tương quan giữa đồng trong
nước tiểu 24 giờ và dạng đột biến
Hình 4. Phân bố đồng niệu 24 giờ và dạng
đột biến
Kết quả về phân bố đồng niệu 24 giờ với
các dạng đột biến gen cho thấy hàm lượng
đồng trong nước tiểu 24 giờ ở nhóm mang
alen đột biến dạng vô nghĩa/lệch khung cao
hơn nhóm mang các alen đột biến khác.
Hình ảnh minh họa bệnh nhân có đột biến
mới thêm nucleotid:
Người bình thường Bệnh nhân W37.00
Hình 5. Hình giải trình tự gen của bệnh nhân mã W37.00
Kết quả ở hình 5 cho thấy, bệnh nhân có đột biến thêm nucleotid T tại vị trí 2712-2713, đột
biến này đã tạo nên mã kết thúc sớm ở vị trí acid amin số 905.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả từ hình 1 cho thấy nồng độ
ceruloplasmin huyết thanh trung bình khác
nhau giữa các nhóm bệnh nhân: nhóm bệnh
nhân mang 4 alen đột biến có nồng độ
ceruloplasmin trung bình thấp nhất; nhóm
mang 2 alen đột biến có nồng độ
ceruloplasmin trung bình cao nhất. Nghĩa là
nhóm bệnh nhân mang nhiều alen đột biến có
nồng độ ceruloplasmin trong huyết thanh thấp
hơn nhóm mang ít alen đột biến. Điều này phù
hợp về đặc điểm sinh học phân tử: sự xuất
hiện càng nhiều các biến dị/đột biến trên gen
ATP7B thì cấu trúc và tính chất của protein
42 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
càng thay đổi, gây ảnh hưởng đến chức năng
vận chuyển đồng. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa nhóm bệnh nhân mang 4
alen đột biến với các nhóm bệnh nhân
mang 1 alen, 2 alen và 3 alen đột biến (với
p lần lượt là 0,002; 0,001 và 0,001). Tác giả
Hyung - Doo Park (2010), nghiên cứu 71 bệnh
nhân thấy rằng có mối tương quan nghịch có
ý nghĩa thống kê giữa nồng độ ceruloplasmin
và số alen đột biến [8]. Như vậy, bệnh nhân
càng mang nhiều alen đột biến thì quá trình
chuyển hóa đồng trong cơ thể càng giảm làm
cho nồng độ ceruloplasmin huyết thanh càng
giảm và lượng đồng tích lũy trong cơ thể càng
tăng.
Nồng độ đồng niệu trong nước tiểu 24 giờ
trung bình tỷ lệ thuận với số alen đột biến:
nhóm mang 1 alen đột biến có nồng độ đồng
thấp nhất; nhóm mang 4 alen đột biến có nồng
độ đồng cao nhất (hình 2). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa nhóm mang 1 alen đột
biến và 3 alen đột biến (p = 0,035); nhóm
mang 1 alen đột biến và 4 alen đột biến (p <
0,001); nhóm mang 2 alen đột biến và 4 alen
đột biến (p = 0,001); nhóm mang 2 alen đột
biến và nhóm mang 3 alen đột biến (p = 0,02)
(hình 2). So sánh nồng độ đồng trong nước
tiểu 24h của các bệnh nhân Wilson Hàn Quốc
ở các nhóm mang các alen đột biến khác
nhau cũng cho kết quả: bệnh nhân mang 2
alen đột biến có nồng độ đồng niệu cao nhất,
sau đó là nhóm mang 1 alen đột biến và nhóm
không mang alen đột biến [8]. Như vậy, bệnh
nhân càng mang nhiều alen đột biến thì nồng
độ đồng trong nước tiểu 24 giờ càng cao.
Hình 3 cho thấy nhóm bệnh nhân mang
đột biến vô nghĩa/lệch khung có nồng độ
ceruloplasmin huyết thanh thấp hơn nhóm
bệnh nhân mang các dạng đột biến khác và
nhóm mang 2 alen đột biến vô nghĩa/lệch
khung có nồng độ ceruloplasmin thấp hơn
nhóm mang 1 alen đột biến vô nghĩa, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm.
Nghiên cứu nhóm bệnh nhi bị bệnh Wilson ở
Ý cho kết quả: nhóm bệnh nhân mang 2
alen đột biến vô nghĩa/lệch khung có nồng
độ ceruloplasmin huyết thanh trung bình
thấp hơn nhóm mang đột biến sai nghĩa [9].
Nghiên cứu khác của Gromadzka G. ở Ba Lan
cũng thấy sự khác nhau giữa các dạng đột
biến: nhóm bệnh nhân mang 2 alen đột biến
dạng vô nghĩa/lệch khung dịch mã có nồng độ
ceruloplasmin thấp hơn nhóm mang 1 alen đột
biến dạng vô nghĩa/lệch khung dịch mã, nồng
độ ceruloplasmin cao nhất ở nhóm mang alen
đột biến sai nghĩa [10]. Điều này phù hợp về
đặc điểm sinh học phân tử: đột biến vô nghĩa/
lệch khung trên gen ATP7B là đột biến nặng
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng
vận chuyển đồng. Nồng độ ceruloplasmin
trong máu giảm làm tăng nồng độ đồng tự do
trong huyết thanh và lắng đọng đồng tại các
cơ quan đích gây nên các biểu hiện lâm sàng
của bệnh Wilson.
Khi so sánh tương quan nồng độ đồng
niệu 24 giờ giữa các nhóm đột biến, chỉ có
nhóm mang 2 alen đột biến dạng vô nghĩa/
lệch khung với nhóm mang đột biến sai
nghĩa/đột biến vùng 5'UTR có ý nghĩa thống
kê với p = 0,01 (hình 4). Tác giả Gromadzka
G. nghiên cứu ở Ba Lan cũng thấy nồng đồng
trong nước tiểu 24 giờ khác nhau giữa các
dạng đột biến: nhóm bệnh nhân mang 2 alen
đột biến dạng vô nghĩa/lệch khung dịch mã có
nồng độ đồng cao hơn nhóm mang 1 alen đột
biến dạng vô nghĩa/lệch khung dịch mã, nồng
độ đồng thấp nhất ở nhóm mang alen đột biến
sai nghĩa [10]. Như đã đề cập, bệnh do sự bất
TCNCYH 115 (6) - 2018 43
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thường của enzyme typ P- ATPase. Đây là 1
protein vận chuyển đồng từ gan tới các cơ
quan và đóng vai trò trong việc đào thải đồng
ra khỏi cơ thể chủ yếu qua đường mật. Khi
bệnh nhân mang đột biến vô nghĩa/lệch khung
sẽ tạo mã kết thúc sớm làm protein bị cắt
ngắn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức
năng chuyển hóa đồng. Lượng đồng không
được chuyển hóa, không được đào thải ra
ngoài qua đường mật sẽ ứ đọng ở gan, đồng
tự do tăng lưu thông trong máu và tăng đào
thải qua nước tiểu.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã phát hiện được bệnh nhân
Wilson mang nhiều hơn 2 alen đột biến và đột
biến dạng vô nghĩa/ lệch khung trên gen
ATP7B có nồng độ ceruloplasmin huyết thanh
thấp và đồng niệu 24 giờ cao hơn nhóm mang
1 alen đột biến và nhóm mang dạng đột biến
sai nghĩa/đột biến vùng 5'UTR.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ
kinh phí bởi Đề tài cấp Bộ Y tế: “Nghiên cứu
phát hiện đột biến gen ATP7B gây bệnh
Wilson” và sự giúp đỡ của các cán bộ của
Trung tâm nghiên cứu Gen - Protein, Trường
Đại học Y Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wilson SAK (1912), Progressive len-
ticular degeneration: a familial nervous dis-
ease associated with cirrhosis of the liver.
Brain, 34, 295 – 507.
2. Bull PC, Thomas G R, Forbes J et al
(1993). The Wilson disease gene is a putative
copper transporting P-type ATPase similar to
the Menkes disease gene. Nature Genet, 5,
327 - 337.
3. Đỗ Thanh Hương, Nguyễn Văn Liệu,
Phan Tuấn Nghĩa, Nguyễn Thị Vân Anh
(2010). Đột biến gen R778L ở bệnh nhân Wil-
son Việt Nam. Tạp chí Nhi khoa, 3, 231 - 235.
4. Hồ Cẩm Tú, Tạ Minh Hiếu, Trần Vân
Khánh, Tạ Thành Văn (2011). Xây dựng quy
trình xác định đột biến gen ATP7B gây bệnh
Wilson. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 74(3),
26 - 29.
5. Nguyễn Thị Mai Hương, Ngô Diễm
Ngọc, Nguyễn Phương Mai và cộng sự
(2013). Xác định đột biến gen ATP7B trên
vùng hot-spots ở bệnh nhân Wilson. Tạp chí Y
học Việt Nam, 407(2), 132 - 135.
6. Peter Ferenci (2006). Regional distribu-
tion of mutations of the ATP7B gene in pa-
tients with Wilson disease: impact on genetic
testing. Hum Genet, 120, 151 – 159.
7. Ferenci P, Caca K, Loudianos G, Mieli
-Vergani G, Tanner S, Sternlieb I et al
(2003). Diagnosis and phenotypic classifica-
tion of Wilson disease. Liver International, 23,
139 - 142.
8. Huyng-Doo Park, Huyn Kyung Park
(2010). Association of ATP7B mutation detec-
tion rate with biochemical characteristics in
Korean patients with Wilson disease. Annals
of clinical laboratory science, 40(1), 15 - 19.
9. Emanuele Nicastro (2009). Genotype-
phenotype correlation in Italian children with
Wilson's disease. Hepatology, 50, 555 - 561.
10. Gromadzka G, Schmidt HJ, Gens-
chel J et al (2005). Frameshift and nonsense
mutations in the gene for ATP7B are associa-
ted with severe impairment of cooper metabo-
lism and with an early clinical manifestation
of Wilson's disease. Clinical Genetics, 68,
524 - 532.
44 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
GENOTYPE AND SERUM CERULOPLASMIN-URINARY COPPER
24-HOUR CORRELATION IN WILSON DISEASE PATIENTS
The study was performed in order to identify the correlation between genotype and serum
ceruloplasmin -urinary copper 24-hour in Vietnamese patients diagnosed with Wilson disease.
Fourty four patients diagnosed with Wilson disease based on Ferenci’s criteria DNA were
included in this study; samples from these patients were analyzed by direct sequencing to identify
ATP7B mutation. The results: Patients with more than 2 mutant alleles have lower serum
ceruloplasmin and higher urinary copper 24-hour concentration than patients with 1 mutant allele.
Patients with 2 nonsense/frameshift mutant alleles have lower serum ceruloplasmin concentration
than patients with 1 nonsense/frameshift mutant allele or missense/5'UTR regional mutant alleles.
Patients with 2 nonsense/frameshift mutant alleles have higher urinary copper 24-hour concentra-
tion than patients with 1 nonsense/frameshift mutant allele or missense/5'UTR regional mutant
alleles.
Keywords: Wilson disease, ATP7B gene, mutation, mutant allele