Sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal trong phẫu thuật ung thư vú

Mục tiêu: so sánh hiệu quả thông khí và tính ổn định huyết động của mặt nạ thanh quản Proseal (MNTQP) so với ống nội khí quản trong gây mê phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trên bệnh nhân ung thư vú. Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, so sánh-kiểm chứng. 196 bệnh nhân ung thư vú có ASA I, II, III được mổ chương trình đoạn nhũ nạo hạch, được chia thành hai nhóm MNTQ-P và NKQ một cách ngẫu nhiên, chọn cỡ MNTQ-P số 3 hoặc 4, NKQ số 7-7,5, thu thập các số liệu: mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp tâm trương (HATTr), áp lực đường thở, SpO2 và ETCO2, biến chứng trong và sau gây mê. Kết quả: các thông số về thông khí và huyết động trong gây mê giữa MNTQ-P và NKQ là: SpO2 99,04 ± 0,62% và 99,12 ± 0,49%, ETCO2 34,45 ± 1,92 mmHg và 34,39 ± 2,09 mmHg, áp lực đường thở 14,33 ± 2,33 cmH2O và 16,86 ± 2,25 cmH2O, HATT 106,98 ± 25,29 mmHg và 134,79 ± 35,3 mmHg, HATTr 62,02 ± 14,72 mmHg và 75,34 ± 19,53 mmHg, mạch 77,51 ± 11,74 lần/phút và 93,47 ± 17,38 lần/phút. Kết luận: MNTQ-P hiệu quả và an toàn trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, ít ảnh hưởng huyết động và giảm được các biến chứng sau phẫu thuật.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal trong phẫu thuật ung thư vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 333 SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN PROSEAL TRONG PHẪU THUẬT UNG THƯ VÚ Mai Thụy Nam Phương*, Nguyễn Văn Chừng** TÓM TẮT Mục tiêu: so sánh hiệu quả thông khí và tính ổn định huyết động của mặt nạ thanh quản Proseal (MNTQ- P) so với ống nội khí quản trong gây mê phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách trên bệnh nhân ung thư vú. Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, so sánh-kiểm chứng. 196 bệnh nhân ung thư vú có ASA I, II, III được mổ chương trình đoạn nhũ nạo hạch, được chia thành hai nhóm MNTQ-P và NKQ một cách ngẫu nhiên, chọn cỡ MNTQ-P số 3 hoặc 4, NKQ số 7-7,5, thu thập các số liệu: mạch, huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp tâm trương (HATTr), áp lực đường thở, SpO2 và ETCO2, biến chứng trong và sau gây mê. Kết quả: các thông số về thông khí và huyết động trong gây mê giữa MNTQ-P và NKQ là: SpO2 99,04 ± 0,62% và 99,12 ± 0,49%, ETCO2 34,45 ± 1,92 mmHg và 34,39 ± 2,09 mmHg, áp lực đường thở 14,33 ± 2,33 cmH2O và 16,86 ± 2,25 cmH2O, HATT 106,98 ± 25,29 mmHg và 134,79 ± 35,3 mmHg, HATTr 62,02 ± 14,72 mmHg và 75,34 ± 19,53 mmHg, mạch 77,51 ± 11,74 lần/phút và 93,47 ± 17,38 lần/phút. Kết luận: MNTQ-P hiệu quả và an toàn trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, ít ảnh hưởng huyết động và giảm được các biến chứng sau phẫu thuật. Từ khóa: mặt nạ thanh quản Proseal, thông khí, phẫu thuật ung thư vú. ABSTRACT USING PROSEAL LARYNGEAL MASK AIRWAY IN SURGERY OF BREAST CANCER Mai Thuy Nam Phuong, Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 333 - 339 Objective: Compare the effect of ventilation and stableness of hemokinesis indexes in using PLMA and tracheal tube in surgery of breast cancer (mastectomy and lymphadenectomy). Methods: Prospectively, compare and control study. Sample size: 196 patients, ASA status I, II, III, who were undergone elective breast surgeries (mastectomy and lymphadenectomy). They were divided randomly into two groups: inserted PLMA and tracheal intubation (group PLMA used size 3 or 4 and group endotracheal tube used size 7-7.5). Data collection comprised of pulses, systolic blood pressure, diastolic blood pressure, airway pressure, SpO2, ETCO2, as well as complications during and after the anesthesia. Results: The parameters about ventilation and hemodynamic during anaesthesia between PLMA and endotracheal tube included: SpO2 were 99.04 ± 0.62% and 99.12 ± 0.49%, ETCO2 were 34.45 ± 1.92 mmHg and 34.39 ± 2.09 mmHg, airway pressure were 14.33 ± 2.33 cmH2O and 16.86 ± 2.25 cmH2O, systolic blood pressure were 106.98 ± 25.29 mmHg and 134.79 ± 35.3 mmHg, diastolic blood pressure were 62.02 ± 14.72 mmHg and 75.34 ± 19.53 mmHg, pulses 77.51 ± 11.74 time/min and 93.47 ± 17.38 time/min. Conclusion: The PLMA is effective and safe for breast sugery because it does not affect to the patient’s blood pressure intraoperative, therefore the postoperative complications are aslo decreased considerably. Keywords: Proseal laryngeal mask airway, ventilation, surgery of breast cancer. * BV Ung Bướu Tp. Hồ Chí Minh, ** Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh Địa chỉ liên hệ : Ths. Mai Thụy Nam PhươngĐT: 0987111284Email: maithuynamphuong2010@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 334 ĐẶT VẤN ĐỀ Thông khí trong gây mê phẫu thuật là vấn đề quan trọng vì nếu không kiểm soát tốt thông khí sẽ ảnh hưởng tính mạng người bệnh để lại nhiều biến chứng và di chứng, đặc biệt di chứng thần kinh. Có một số dụng cụ giúp đảm bảo việc thông khí như: nội khí quản, mặt nạ mặt, các loại mặt nạ thanh quản. Đặt nội khí quản được sử dụng để giữ thông đường hô hấp một cách hiệu quả và chắc chắn nhất, nhưng nội khí quản vẫn có một số những bất lợi như: ảnh hưởng huyết động khi đặt và rút, những biến chứng vùng hầu họng, những khó khăn khi đặt nội khí quản khó. Để giải quyết những vấn đề này, năm 1981 Archie Brain và cộng sự(1) đã thiết kế mặt nạ thanh quản cổ điển (c-LMA: classic Laryngeal Mask Airway) để thay thế ống nội khí quản. Tuy nhiên mặt nạ thanh quản cổ điển có một số nhược điểm: không chịu được áp lực cao khi thông khí áp lực dương, dễ chướng hơi dạ dày, nguy cơ hít dịch trào ngược cao Do đó năm 2000, Archie Brain và cộng sự thiết kế mặt nạ thanh quản Proseal (PLMA: Proseal Laryngeal Mask Airway) đã khắc phục những nhược điểm trên. Với những ưu điểm về ổn định huyết động khi đặt và rút MNTQ, giảm được những biến chứng sau mổ cũng như đặt MNTQ không cần dãn cơ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal trong phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch trên bệnh nhân ung thư vú. Mục tiêu nghiên cứu - Xác định tính an toàn qua sự biến đổi huyết động học trong gây mê phẫu thuật ở hai nhóm. - Xác định tính hiệu quả thông khí qua: áp lực thông khí, SpO2, ETCO2 ở 2 nhóm. - Xác định các tai biến và biến chứng trong và sau mổ ở hai nhóm. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn chọn bệnh - Tất cả các bệnh nhân ung thư vú được mổ chương trình có chỉ định gây mê phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách. - Bệnh nhân có phân loại ASA I, II, III Tiêu chuẩn loại trừ - Bệnh nhân không đồng ý sử dụng mặt nạ thanh quản - Bênh nhân có chống chỉ định sử dụng mặt nạ thanh quản Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, so sánh, kiểm chứng. - Cỡ mẫu: 196 bệnh nhân chia thành hai nhóm - Nhóm I: 98 bệnh nhân được gây mê toàn diện với mặt nạ thanh quản Proseal. - Nhóm II: 98 bệnh nhân được gây mê toàn diện với ống nội khí quản - Địa điểm và thời gian nghiên cứu: thu thập số liệu tại khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức bệnh viện Ung Bướu từ tháng 7/2009 đến tháng 3/2010. Phương pháp tiến hành Chuẩn bị dụng cụ, trang thiết bị, thuốc gây mê hồi sức trước cuộc mổ như một cuộc gây mê thường qui. Tiền mê: Midazolam 0,05-0,1 mcg/kg + Sufentanil 0,2-0,3 mcg/kg tiêm tĩnh mạch. Khởi mê: Propofol 2-2,5 mg/kg, Rocuronium 0,3-0,6 mg/kg cho nhóm đặt nội khí quản. Tiến hành đặt mặt nạ thanh quản Proseal, NKQ. Duy trì mê: oxy và Sevoflurane, Sufentanil và dãn cơ nếu cần. Thu thập các thông số: mạch, huyết áp trước và sau khi đặt cũng như lúc rút mặt nạ thanh quản hoặc ống NKQ, SpO2, ETCO2, thời gian Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 335 đặt và rút MNTQ-P và ống NKQ, thể tích bơm bóng hơi mặt nạ thanh quản, thời gian phẫu thuật, các tai biến, biến chứng trong và sau phẫu thuật 24 giờ. Xử lý thống kê: sử dụng phần mềm SPSS 11.5. KẾT QUẢ Nghiên cứu 196 bệnh nhân được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách dưới gây mê toàn diện với MNTQ-P và ống NKQ từ tháng 7/2009 đến tháng 3/2010 tại khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh đã thu được kết quả sau: Đặc điểm chung bệnh nhân Bảng 1: Tuổi, chiều cao, cân nặng và BMI của 2 nhóm MNTQ-P (n=98) (TB ± ĐLC) NKQ (n=98) (TB ± ĐLC) p Tuổi (năm) 47,98 ± 10,09 48,7 ± 9,47 0,55 Chiều cao (cm) 153,4 ± 5,06 153,6 ± 6,27 0,39 Cân nặng (kg) 53,8 ± 8,96 54,2 ± 9,6 0,49 BMI (kg/m2) 22,8 ± 3,27 22,9 ± 3,38 0,66 Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo giai đoạn ung thư vú Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III Tổng cộng MNTQ-P 24 (24,49%) 55 (56,12%) 19 (19,39%) 98 (100%) NKQ 19 (19,39%) 61 (60,2%) 20 (20,41%) 98 (100%) Tổng cộng 43 (21,94%) 116 (59,18%) 39 (18,88%) 196 (100%) Bảng 3: ASA và Mallampati Nhóm ASA (%) Mallampati (%) I II III I II III MNTQ-P 50 (51,02) 45 (45,92) 3 (3,06) 46 (46,94) 48 (48,98) 4 (4,08) NKQ 48 (48,98) 47 (47,96) 3 (3,06) 48 (48,98) 48 (48,98) 2 (2,04) Bảng 4: Thuốc gây mê, thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật MNTQ-P (n=98) NKQ (n=98) p Midazolam (mg/kg) 0,56 ± 0,21 0,57 ± 0,53 0,78 Sufentanil (mcg/kg) 0,32 ± 0,67 0,32 ± 0,62 0,68 Propofol (mg/kg) 1,97 ± 0,30 1,91 ± 0,23 0,13 MNTQ-P (n=98) NKQ (n=98) p Rocuronium (mg/kg) 0,26 ± 0,17 0,54 ± 0,07 0,001 TGGM (phút) 84,99 ± 17,45 87,04 ± 18,42 0,43 TGPT (phút) 63,58 ± 16,47 62,98 ± 16,77 0,8 Bảng 5: Thời gian đặt và thời gian rút MNTQ-P, NKQ MNTQ-P (n=98) NKQ (n=98) p TG đặt (giây) 46,68 ± 13,45 58,35 ± 10,93 0,001 TG rút (phút) 9,16 ± 3,73 10,76 ± 4,74 0,01 Các chỉ số theo dõi về hô hấp Bảng 6: So sánh áp lực thông khí giữa 2 nhóm MNTQ-P (n=98) NKQ (n=98) p ALTK (cmH2O) 14,33 ± 2,33 16,86 ± 2,25 0,001 Bảng 7: So sánh SpO2 và ETCO2 giữa 2 nhóm MNTQ-P (n=98) NKQ (n=98) p SpO2 (%) 99,04 ± 0,62 99,12 ± 0,49 0,35 ETCO2(mmHg) 34,45 ± 1,92 34,39 ± 2,09 0,82 Các chỉ số theo dõi về tuần hoàn Bảng 8: So sánh HATT và HATTr giữa hai nhóm MNTQ-P (n=98) (mmHg) NKQ (n=98) (mmHg) p HATT trước đặt 1 phút 110,44 ± 24,65 107,55 ± 27,64 0,44 HATT sau đặt 1 phút 106,86 ± 25,29 134,79 ± 35,3 0,001 HATT sau đặt 5 phút 106,98 ± 23,48 112,8 ± 22,02 0,08 HATT trước rút 1 phút 134,88 ± 25,19 131,83 ± 24,15 0,39 HATT sau rút 1 phút 140,23 ± 23,56 151,14 ± 21,93 0,01 HATT sau rút 5 phút 144,22 ± 23,45 142,48 ± 22,2 0,59 HATTr trước đặt 1 phút 62,08 ± 16,81 60,39 ± 15,29 0,46 HATTr sau đặt 1 phút 62,02 ± 14,72 75,34 ± 19,53 0,001 HATTr sau đặt 5 phút 62,47 ± 15,25 66,05 ± 14,33 0,09 HATTr trước rút 1 phút 78,73 ± 15,06 78,00 ± 16,54 0,75 HATTr sau rút 1 phút 83,05 ± 15,36 87,84 ± 12,85 0,019 HATTr sau rút 5 phút 85,49 ± 13,66 82,38 ± 12,06 0,09 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 336 Các tai biến và biến chứng Bảng 9: Tai biến, biến chứng của 2 nhóm Các tai biến, biến chứng MNTQ-P (n=98) NKQ (n=98) Co thắt thanh quản 3 (3,06%) 4 (4,08%) Tổn thương niêm mạc dính máu MNTQ-P 8 (8,16%) 1 (1,02%) Ho 4 (4,08%) 14 (14,28%) Đau họng 8 (8,16%) 15 (15,3%) Khàn tiếng 0 (0%) 3 (3,06%) Nôn và buồn nôn 3 (3,06%) 5 (5,1%) Trào ngược 0 (0%) 0 (0%) Kích thích vùng vẫy lúc rút 6 (6,12%) 98 (100%) BÀN LUẬN Đặc điểm chung của bệnh nhân Tuổi trung bình nhóm MNTQ-P: 47,98 ± 10,09 tuổi, nhóm NKQ: 48,7 ± 9,47 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú từ 41 – 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (69,9%). Chiều cao trung bình nhóm MNTQ-P: 153,4 ± 5,06 cm, nhóm NKQ: 153,6 ± 6,27 cm. Cân nặng trung bình nhóm MNTQ-P: 53,8 ± 8,96 kg, nhóm NKQ: 54,2 ± 9,6 kg. BMI có liên quan đến việc lựa chọn cỡ MNTQ-P và ống NKQ, trong nghiên cứu của chúng tôi BMI nhóm MNTQ-P là 22,8 ± 3,27 kg/m2, nhóm NKQ là 22,9 ± 3,38 kg/m2. Sử dụng thuốc gây mê Việc kết hợp thuốc tiền mê Midazolam, thuốc giảm đau Sufentanil và đặc biệt là thuốc mê tĩnh mạch Propofol giúp cho việc đặt MNTQ-P được dễ dàng. Propofol có khả năng làm dãn cơ hàm và ức chế hoàn toàn các phản xạ vùng hầu họng do đó có thể đặt MNTQ mà không cần dùng đến thuốc dãn cơ. Thời gian gây mê Thời gian gây mê trung bình của nhóm MNTQ-P: 84,99 ± 17,45 phút và nhóm NKQ: 87,04 ± 18,42 phút. Thời gian phẫu thuật Thời gian phẫu thuật trung bình của nhóm MNTQ-P: 63,58 ± 17,45 phút và nhóm NKQ: 62,98 ± 16,77 phút. Thời gian đặt và thời gian rút MNTQ-P và NKQ: Thời gian đặt và thời gian rút MNTQ-P sau khi cuộc mổ kết thúc nhanh hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với ống NKQ (p < 0,05), điều này phù hợp với nghiên cứu của Keller C, Malby(7,8). Thời gian đặt của nhóm MNTQ-P là 46,68 ± 13,45 giây và nhóm NKQ là 58,35 ± 10,93 giây; thời gian rút của nhóm MNTQ-P là 9,16 ± 3,73 phút và nhóm NKQ là 10,76 ± 4,74 phút. Thời gian đặt và thời gian rút của MNTQ-P tương đối nhanh rất có ý nghĩa đối với bệnh nhân tăng huyết áp hoặc có bệnh tim mạch như nhồi máu cơ tim cũ, thiểu năng vành vì thời gian đặt và rút nhanh kèm theo kỹ thuật đặt ít xâm lấn nên ít gây rối loạn huyết động và ít gây tăng nhu cầu oxy cho cơ tim do đó giảm được những biến chứng tim mạch trong và sau phẫu thuật. Kỹ thuật đặt mặt nạ thanh quản Chọn kích cỡ mặt nạ thanh quản Proseal Chọn kích cỡ mặt nạ thanh quản một vấn đề quan trọng vì cỡ mặt nạ thanh quản đúng sẽ dễ đặt, độ kín mặt nạ tốt, ít chèn ép lên mao mạch vùng hầu họng, giảm biến chứng sau mổ và thông khí với mặt nạ thanh quản an toàn, hiệu quả(1,2,3). Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi kết hợp giữa giới, cân nặng và đánh giá cấu trúc vùng hầu họng để chọn mặt nạ thanh quản phù hợp, đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi dùng MNTQ-P số 3, chỉ có 3 trường hợp dùng MNTQ-P số 4. Tỷ lệ đặt thành công MNTQ-P : tùy thuộc vào các yếu tố: - Cấu trúc giải phẫu vùng hầu họng bình thường. - Chọn cỡ MNTQ phù hợp Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 337 - Kỹ thuật đặt thành thạo và chọn thời điểm mê thích hợp. Nghiên cứu của chúng tôi đặt mặt nạ thanh quản bằng ngón trỏ tay phải có tỷ lệ thành công lần đầu là 89,9%, tỷ lệ thành công chung là 100%. Nghiên cứu sử dụng MNTQ-P trong phẫu thuật trong ngày của Đỗ Thanh Huy và Nguyễn Văn Chừng(4) có tỷ lệ thành công chung là 100%. Thông khí Thông khí được đánh giá là hiệu quả sau khi đặt mặt nạ thanh quản: SpO2 ≥ 95%, áp lực thông khí ≤ 35 cmH2O, ETCO2 duy trì 35-45 mmHg, lồng ngực dãn nở cân xứng, không nghe rò khí qua miệng, không bơm hơi vào dạ dày. Áp lực thông khí Trong nghiên cứu của chúng tôi áp lực thông khí của nhóm đặt mặt nạ thanh quản Proseal thấp hơn nhóm đặt NKQ (14,64 ± 2,89 cmH2O và 16,99 ± 2,12 cmH2O), tương tự nghiên cứu của Brimacombe và Maltby(7) (18 ± 5 cmH2O và 20 ± 5 cmH2O). Áp lực thông khí ở nhóm đặt NKQ cao hơn là do đường kính trong nhỏ hơn, ở nhóm đặt NKQ: ống nội khí quản số 7 (đường kính trong 7 mm) và số 7,5 (đường kính trong 7,5 mm), trong khi đó đường kính trong của mặt nạ thanh quản số 3 và số 4 là 9 mm. SpO2: độ bão hòa oxy qua mạch đập Nghiên cứu của chúng tôi, SpO2 của nhóm MNTQ-P: 99,04% ± 0,62% so với nhóm NKQ: 99,12 ± 0,49%, SpO2 luôn luôn dao động từ 98%- 100%. Kết quả của chúng tôi tương đương với nghiên cứu của Roger Maltby và cs(8); Ocker H(11). ETCO2: thán khí cuối kỳ thở ra Biến đổi ETCO2 trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong giới hạn cho phép, duy trì từ 27 – 45 mmHg, không có sự khác biệt giữa nhóm đặt mặt nạ thanh quản Proseal và NKQ (34,45 ± 1,92 mmHg so với 34,39 ± 2,09 mmHg). Huyết động Chúng tôi nghiên cứu tại các thời điểm trước khi đặt, sau khi đặt và lúc rút MNTQ-P: tại thời điểm trước và sau khi đặt 1 và 5 phút ở nhóm MNTQ-P, mạch và huyết áp ít biến đổi hơn, huyết áp tâm thu sau đặt 1 phút thấp hơn trước đặt (110,44 ± 24,65 mmHg và 106,86 ± 25,29 mmHg), mạch thì không khác nhau, sau 5 phút huyết áp không thay đổi. Ngược lại nhóm đặt NKQ thì huyết áp tâm thu sau đặt 1 phút cao hơn (107,55 ± 27,64 mmHg và 134,79 ± 35,3 mmHg), mạch cũng nhanh hơn (77,02 ± 12,89 lần/phút và 93,47 ± 17,38 lần/phút), nhưng sau 5 phút thì không khác biệt nhau. Tại thời điểm rút ống NKQ và mặt nạ thanh quản, biến đổi về huyết áp và mạch ở nhóm NKQ cũng cao hơn so với nhóm MNTQ-P. Theo y văn ảnh hưởng lên huyết động của mặt nạ thanh quản không đáng kể và ít hơn đặt NKQ(9,13). Wolfgang Oczenski(15) nhận thấy ảnh hưởng lên huyết động của nhóm NKQ ở giai đoạn trước và sau đặt cao gấp 2 lần nhóm đặt mặt nạ thanh quản. Montarazi(9) thấy HA, mạch của nhóm MNTQ ở giai đoạn trước và sau đặt 1 phút và 5 phút không có khác biệt. Sự tăng huyết áp nhiều ở nhóm đặt NKQ được cho là khi kích thích đường hô hấp trên trong quá trình đặt NKQ gây nên đáp ứng của hệ thần kinh giao cảm – tuyến thượng thận thông qua các ổ thụ cảm thể ở vùng thanh quản, khí quản gây ra tăng huyết áp, tăng mạch, tăng nồng độ catecholamin huyết thanh. Khi phân tích đáp ứng của huyết động trong từng thời kỳ đặt, Singh(14) thấy lúc đưa đèn soi thanh quản vào thì tác động lên HA nhiều hơn lúc đưa ống NKQ vào. Tai biến, biến chứng Biến chứng trào ngược và hít sặc dịch vị Biến chứng trào ngược và hít sặc và hít sặc là một biến chứng rất quan trọng, có thể đe dọa tính mạng người bệnh, biến chứng này có thể xảy ra khi thông khí với mặt nạ thanh quản. Tuy nhiên theo các nghiên cứu trước đây thì tỷ lệ này thấp(5). Có nhiều yếu tố gây ra như: chọn bệnh nhân không tuân thủ chỉ định và chống chỉ định của MNTQ, tư thế bệnh nhân trong phẫu thuật: nằm đầu thấp, nằm nghiêng, nằm sấp. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Ngoại Khoa 338 Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào trào ngược và hít sặc. Co thắt thanh quản, tổn thương niêm mạc dính máu. Co thắt thanh quản trong nghiên cứu của chúng tôi gặp ở nhóm MNTQ-P là 3/98 (3,06%), nhóm NKQ là 4/98 (4,08%). Maltby, Neilson(7) gặp ở nhóm MNTQ cổ điển là 1/49 (2,04%), nhóm NKQ là 5/48 (10,41%). Maltby(8) gặp trong nhóm MNTQ-P là 2/50 (4%), nhóm NKQ là 5/55 (9,09%). Như vậy co thắt thanh quản gặp ở nhóm NKQ nhiều hơn. 8 trường hợp (8,16%) tổn thương niêm mạc hầu họng, gây chảy máu dính MNTQ. Những trường hợp này xảy ra trên bệnh nhân đặt mặt nạ thanh quản lần thứ 2 hoặc thứ 3. Tuy nhiên sự tổn thương này không ảnh hưởng đến quá trình thông khí và tổn thương này chỉ gây chảy máu ít, tự cầm, không cần phải xử trí. Trong nghiên cứu của Brimacombe và Kihara(6) tỷ lệ tổn thương niêm mạc từ 3-28% (trung bình là 10,2%). Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Kích thích vùng vẫy lúc rút Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân kích thích vùng vẫy lúc rút mặt nạ thanh quản ít hơn chiếm tỷ lệ 6,12% so với rút ống NKQ chiếm tỷ lệ 100%.. Kích thích vùng vẫy là yếu tố gây tăng huyết áp lúc rút, đặt biệt nhóm bệnh nhân có bệnh tim mạch kèm theo. Ho sau gây mê và phẫu thuật Khi so sánh giữa MNTQ cổ điển và NKQ, Maltby(7) thấy tỷ lệ ho giữa các nhóm MNTQ là 8/49 (16,32%), nhóm NKQ là 38/48 (79,16%). Như vậy tỷ lệ ho bao giờ cũng gặp nhiều ở nhóm đặt NKQ bởi vì nó kích thích trực tiếp lên các thụ thể tại chỗ của đường hô hấp. Đau họng và khàn tiếng Biến chứng gây đau họng của MNTQ-P trong nghiên cứu của chúng tôi là 8 trường hợp (8,16%) . Đa số bệnh nhân đau họng mức độ vừa và nhẹ, hết đau sau 24 giờ. Theo nghiên cứu của Radu.A.D(12) , tỷ lệ đau họng trong nhóm NKQ cao hơn nhóm MNTQ-P một cách có ý nghĩa 6 giờ sau mổ (74% so với 27%, p = 0,0003) và 24 giờ sau mổ (27% so với 0%, p = 0,004), tỷ lệ khàn tiếng ở nhóm NKQ cũng cao hơn nhóm MNTQ- P vào thời điểm 6 giờ sau mổ (40% so với 15%) nhưng không quá 24 giờ. Trong nghiên cứu của chúng tôi nhóm đặt MNTQ-P không có trường hợp nào khàn tiếng, nhóm đặt NKQ có 2 trường hợp khàn tiếng nhẹ (hết sau 6 giờ) và 1 trường hợp khàn tiếng vừa (hết sau 24 giờ). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 196 trường hợp được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch nách, chúng tôi rút ra một số kết luận: - Phương pháp gây mê toàn diện với thông khí bằng mặt nạ thanh quản Proseal là một phương pháp đơn giản, an toàn, ít ảnh hưởng huyết động khi đặt và rút. - Kiểm soát tốt thông khí trong gây mê và phẫu thuật, duy trì tốt SpO2 và ETCO2. - Áp lực thông khí nằm trong giới hạn cho phép, ngăn ngừa trào ngược và hít sặc dịch vị, giảm tai biến và biến chứng sau phẫu thuật. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brain A.I.J, Verghese C, Strube P J (2000). “The LMA ProSeal – a laryngeal mask with an oesophageal vent”. B J Anaesth; 84; p 650-654. 2. Brain AIJ, Verghese C (2002). “Mode d’emploi LMA-ProSeal”. The laryngeal mask company limited. p 1-29. 3. Brimacombe J and Keller C (1999). “Laryngeal mask airway size selection in males and in females: ease of insertion, orophryngeal leak pressure, pharyngeal mucosal pressure and anatomical position”. British Journal of Anesthesia; 82: p