Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa chỉ số HbA1c với vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên, mức độ
đạm niệu, độ lọc cầu thận trên bệnh nhân đái tháo đường tại Phòng khám Thận và Nội tiết – Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.Hồ Chí Minh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số HbA1c với sự gia tăng mức
đạm niệu và suy giảm độ lọc cầu thận (P < 0,05). Trong khi đó, chúng tôi lại ghi nhận không có sự tương quan có
ý nghia giữa HbA1c và các chỉ số dẫn truyền thần kinh ngoại biên.
Kết luận: HbA1c là một chỉ số có giá trị trong việc theo dõi biến chứng thận do ĐTĐ, nhưng lại không có
nhiều ý nghĩa trong đánh giá bệnh lý thần kinh ngoại biên ĐTĐ.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa HbA1C và một số biến chứng mạch máu nhỏ trên bệnh nhân đái tháo đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 134
MỐI LIÊN QUAN GIỮA HbA1C VÀ MỘT SỐ BIẾN CHỨNG MẠCH MÁU NHỎ
TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Lê Quốc Tuấn*, Võ Thị Thiên Hương*, Nguyễn Thị Lệ*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa chỉ số HbA1c với vận tốc dẫn truyền thần kinh ngoại biên, mức độ
đạm niệu, độ lọc cầu thận trên bệnh nhân đái tháo đường tại Phòng khám Thận và Nội tiết – Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.Hồ Chí Minh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang phân tích.
Kết quả: Qua khảo sát trên nhóm bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Tp.HCM, chúng tôi nhận thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số HbA1c với sự gia tăng mức
đạm niệu và suy giảm độ lọc cầu thận (P < 0,05). Trong khi đó, chúng tôi lại ghi nhận không có sự tương quan có
ý nghia giữa HbA1c và các chỉ số dẫn truyền thần kinh ngoại biên.
Kết luận: HbA1c là một chỉ số có giá trị trong việc theo dõi biến chứng thận do ĐTĐ, nhưng lại không có
nhiều ý nghĩa trong đánh giá bệnh lý thần kinh ngoại biên ĐTĐ.
Từ khóa: HbA1c, đái tháo đường (ĐTĐ), vi đạm niệu.
ABSTRACT
THE CORRELATION BETWEEN HbA1C AND THE MICROVASCULAR COMPLICATIONS IN
DIABETIC PATIENTS
Le Quoc Tuan, Vo Thi Thien Huong, Nguyen Thi Le
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 134 - 140
Objective: To investigate of the correlation between HbA1c and peripheral nerve conduction velocity, level of
proteinuria, glomerular filtration rate (GFR) in diabetic outpatients at the Nephrology and Endocrinology
department of HCMC University Medical Center.
Method: analysis cross-sectional study
Results: The study found the significant strong correlation between HbA1c and level of proteinuria,
glomerular filtration rate (P <0.05). Meanwhile, we found no correlation between HbA1c and peripheral nerve
conduction indices.
Conclusion: The HbA1c is a valuable indicator to monitor diabetic nephropathy, but it has not the important
role in the evaluation of peripheral neuropathy.
Key words: HbA1c, diabetes mellitus, microalbuminuria.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh lý mạn
tính, đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết
do thiếu insulin tuyệt đối hoặc tương đối kèm
theo các rối loạn về chuyển hóa glucid, lipid,
protid(18). Theo Liên đoàn ĐTĐ Thế Giới (IDF), số
người mắc ĐTĐ đang tăng nhanh ở nhiều nước
trên toàn cầu, ước tính lên đến 552 triệu người
vào năm 2030, và một nửa trong số đó chưa
được phát hiện chẩn đoán. Riêng trong năm
2012 đã có 4,8 triệu người tử vong liên quan đến
bệnh lý ĐTĐ(1). Tại Việt Nam, theo điều tra quốc
Bộ môn Sinh lý ĐHYD TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Lê Quốc Tuấn ĐT: 01696929792 Email: tuan_lqc@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 135
gia của Tạ Văn Bình thực hiện vào năm 2008 thì
ĐTĐ chiếm khoảng 5.7% dân số(4), được xếp vào
nhóm quốc gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh
trong khu vực. Theo đó, tỷ lệ các biến chứng
mạn tính gây nên bởi ĐTĐ cũng tăng đáng kể,
trong đó hai biến chứng thường gặp nhất là biến
chứng thận và biến chứng thần kinh ngoại biên.
Tỷ lệ mới mắc của suy thận mạn giai đoạn cuối
do ĐTĐ đã tăng gấp đôi trong vòng một thập kỷ
qua, chiếm 45% các trường hợp cần phải điều trị
thay thế thận tại Hoa Kỳ(5). Đây là một trong
những biến chứng nghiêm trọng, làm tăng nguy
cơ tử vong trên các bệnh nhân ĐTĐ. Chính vì
vậy, ĐTĐ đã trở thành một gánh nặng cả về kinh
tế lẫn tinh thần rất lớn cho toàn xã hội. Nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Hữu Lành cho thấy tổng
chi phí điều trị cho một đợt nhập viện nội trú
trung bình là 5.271.201 VNĐ, trong đó chi phí y
tế là 2.390.246 VNĐ(6). Chính những điều này đã
đặt ra vấn đề cần thiết phải theo dõi chặt chẽ các
biến chứng mạn tính ĐTĐ, đưa ra quyết định
điều trị kịp thời, hiệu quả nhằm cải thiện chất
lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ cho người
bệnh. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã
cho thấy HbA1c có sự tương quan chặt chẽ với
sự xuất hiện của các biến chứng mạch máu nhỏ
trên bệnh nhân ĐTĐ(16,7,8). Tuy nhiên, tại Việt
Nam, chưa có nghiên cứu nào làm rõ vấn đề này
một cách sâu sắc, vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu nhằm khảo sát mối liên quan giữa
chỉ số HbA1c với vận tốc dẫn truyền thần kinh
ngoại biên, mức độ đạm niệu, và độ lọc cầu thận
trên bệnh nhân ĐTĐ.
Bình thường, hemoglobin trong hồng cầu có
vai trò vận chuyển khí oxy từ phổi đi khắp cơ
thể, và khí carbonic từ các mô về lại phổi để thải
ra ngoài. Hemoglobin có thể kết hợp một cách
bền vững với glucose tạo thành
glycohemoglobin (hay còn gọi là HbA1c) thông
qua phản ứng Amadori (phản ứng ketoamin)
giữa glucose và nhóm amin trên cả 2 chuỗi
beta(9,10). HbA1c được tính bằng cách lấy phần
trăm lượng glycohemoglobin A1c trên toàn thể
lượng hemoglobin trong cơ thể. HbA1c phụ
thuộc vào mức đường huyết, khi nồng độ glucoe
trong máu càng cao thì sự tiếp xúc giữa glucose
và hemoglobin càng lâu, phản ứng glycat hóa
phân tử hemoglobin càng lan rộng. Phản ứng
này xảy ra không thuận nghịch, không chịu sự
xúc tác của enzym. Giá trị HbA1c nằm trong
khoảng dưới 6,5% cho biết bệnh nhân có nồng
độ đường huyết ổn định tốt trong 2-3 tháng
trước. Ngược lại, nếu giá trị HbA1C cao hơn
7,5% thì phản ánh nồng độ đường huyết đã
không được kiểm soát tốt trong 2-3 tháng qua(11).
Như vậy, HbA1c là một công cụ rất hữu ích
để đánh giá sự kiểm soát đường huyết trên bệnh
nhân ĐTĐ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trên thế
giới trong thời gian gần đây còn cho thấy
HbA1C có thể giúp chẩn đoán bệnh ĐTĐ, cũng
như xác định bệnh suất và tử suất của các biến
chứng tim mạch trên các bệnh nhân đã được
chẩn đoán(12). Chính vì thế, từ năm 2010, Hiệp
hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) đã chấp nhận sử dụng
chỉ số HbA1c trong chẩn đoán và sàng lọc bệnh
ĐTĐ với sự đồng thuận của Uỷ ban các chuyên
gia Quốc tế và Hiệp hội nghiên cứu ĐTĐ Châu
Âu (EASD)(16).
Ngoài hemoglobin, phản ứng Amadori cũng
xảy ra với nhiều loại protein khác trong cơ thể,
tạo thành các sản phẩm glycat hóa cuối cùng
AGEs (advanced end glycation products)(8,9,3).
Các phân tử AGEs là tác nhân rất quan trọng
trong việc gây ra các biến chứng mạn tính của
ĐTĐ. Phản ứng glycat hóa làm thay đổi cấu trúc
của phân tử albumin, khiến nó không được thu
nhận tại gan mà được đưa vào thành các mạch
máu nhỏ nhanh hơn, gây xơ hoá cầu thận ở
người bị ĐTĐ(8,9). Phân tử fibrin bị glycat hóa sẽ
không được tiêu hủy bởi plasmin, do đó tích tụ
tại các mô, làm ảnh hưởng đến quá trình đông
máu(8). Phản ứng glycat hóa phân tử myelin đưa
đến giảm vận tốc dẫn truyền thần kinh trong
bệnh lý thần kinh ngoại biên ĐTĐ(8,3). Phản ứng
glycat hóa màng tế bào bạch cầu làm giảm hoạt
động của quá trình thực bào và các đáp ứng
miễn dịch qua trung gian tế bào đưa đến tình
trạng dễ nhiễm trùng trên bệnh nhân ĐTĐ(8,9)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 136
Như vậy, AGEs là một nhóm gồm nhiều hợp
chất phức tạp khác nhau, nhưng hiện nay chỉ có
thể đo lường được nồng độ huyết thanh của một
số chất nhất định, điển hình là hemoglobin A1c.
Điều này có nghĩa rằng khi HbA1C tăng cao
trong máu thì đã có rất nhiều hợp chất độc hại
khác được tạo ra trong cơ thể, có thể gây tổn
thương nghiêm trọng lên các tế bào.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo
đường tại phòng khám Thận và Nội tiết – Bệnh
viện Đại học Y Dược TP.HCM từ tháng 05/2014
đến 09/2014.
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ theo tiêu
chí của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) 2013:
1. HbA1C ≥ 6,5 %
2. Đường huyết đói ≥ 126 mg/dL
(7,8mmol/L).
3. Đường huyết 2 giờ sau nghiệm pháp
dung nạp glucose ≥ 200 mg/dL (11,1mmol/L).
4. Đường huyết bất kỳ ≥ 200 mg/dL
(11,1mmol/L) kết hợp với triệu chứng điển hình
của tăng đường huyết (tiểu nhiều, khát nhiều,
gầy nhiều).
Trong trường hợp bệnh cảnh không cấp tính
hoặc không có mất bù chuyển hóa, cần lặp lại các
tiêu chí (1), (2), (3) vào một ngày khác để xác
định chẩn đoán.
Tiêu chuẩn loại trừ
Đang có bệnh hemoglobin đã được chẩn
đoán, thiếu máu (Hb < 11,8 g/dL).
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang phân tích
Kỹ thuật chọn mẫu
Liên tục không xác suất.
Phương pháp thu thập số liệu
Định lượng HbA1c theo phương pháp sắc ký
lỏng cao áp HPLC bằng máy D10 của hãng
BioRad; đo dẫn truyền thần kinh ngoại biên
(gồm thời gian tiềm, biên độ điện thế, vận tốc
dẫn truyền) ở các dây quay, giữa, trụ, chày, mác
bằng máy đo điện cơ Neuro-MEP-Micro; đánh
giá vi đạm niệu qua tỉ số ACR (albumin /
creatinine) bằng máy Acon Mission U500; đánh
giá độ lọc cầu thận dựa trên nồng độ creatinine
huyết thanh theo 2 công thức MDRD
(Modification of Diet in Renal Disease Study) và
CKD-EPI (Chronic Kidney Disease
Epidemiology Collaboration Study).
- Công thức MDRD:
eGFR (mL/ph/1,73m2 da) = 186 ×
(creatinine huyết thanh)-1.154 × (tuổi)-0.203
(Nhân với 0,742 nếu là nữ, nhân với 1,21
nếu là người da đen.)
- Công thức CKD-EPI:
eGFR = 141 x min(Cr/κ, 1)α x max (Cr/κ, 1)-
1.209 x 0,993Tuổi
(Trong đó, κ là 0,7 cho nữ và 0,9 cho nam,
α là -0,329 cho nữ và -0,411cho nam, min là giá
trị nhỏ hơn giữa Cr/κ và 1, and max là giá trị lớn
hơn giữa Cr/κ or 1. Nhân với 0,018 nếu là nữ,
nhân với 1,59 nếu là người da đen)
Xử lý số liệu
Phần mềm STATA 10.0
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại
phòng khám Thận – BV Đại học Y Dược
TP.HCM từ tháng 05/2014 đến tháng 09/2014, số
liệu ghi nhận trên 50 bệnh nhân được chẩn đoán
và điều trị ĐTĐ.
Về phân bố giới tính của nhóm nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy tỉ lệ nam/nữ là 1:1. Thực
hiện phép kiểm so sánh, chúng tôi không ghi
nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ
mắc ĐTĐ ở 2 giới (P > 0,05). Kết quả của chúng
tôi tương tự với nghiên cứu của tác giả Lê Quang
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 137
Cường(14); trong nghiên cứu này giới nam chiếm
tỉ lệ 51%. Tuổi trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi là 60,2 ± 11,1 tuổi, đa số bệnh nhân
trong độ tuổi > 40 (98,0%). Điều này đồng nghĩa
với tần suất mắc ĐTĐ có xu hướng cao ở những
bệnh nhân lớn tuổi, phù hợp với nhận định của
nhiều tác giả trong và ngoài nước(18,7,13). BMI
trung bình của nhóm nghiên cứu là 23,3 ± 2,3
kg/m2; phù hợp với nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thy Khuê ở nhóm BN ĐTĐ tại phòng
khám (23,70 ± 2,90)(16). Kết quả này có sự khác
biệt với tác giả Dyck (30,7 ± 5,7)(15), điều này có
thể là do sự khác biệt về thể trạng và chế độ dinh
dưỡng ở các chủng tộc, quốc gia khác nhau. Đa
số bệnh nhân ĐTĐ thuộc nhóm thừa cân-béo phì
(66,0%). Điều này phù hợp với nhận định BMI
tăng cao là một yếu tố nguy cơ của ĐTĐ típ 2,
cho thấy vai trò của lối sống ít vận động và béo
phì trong bệnh sinh ĐTĐ(7).
Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Tổng
cộng
n = 50
Nam
n=25
Nữ
n=25
P
Tuổi (năm) 60,2 ±
11,1
58,0 ±
10,0
62,3 ±
11,1
> 0,05
BMI (kg/m
2
) 23,3 ± 2,3 23,1 ± 2,0 23,5 ± 2,6 > 0,05
Huyết áp tâm thu
(mmHg)
133,0 ±
10,1
134,3 ±
8,7
131,6 ±
11,4
> 0,05
Huyết áp tâm
trương (mmHg)
77,2 ± 6,4 78,0 ± 4,8 76,5 ± 7,6 > 0,05
Hemoglobin (g/dL) 12,4 ± 1,5 12,8 ± 1,8 12,0 ± 1,0 > 0,05
Đường huyết đói
(mg/dL)
145,9 ±
56,8
136,2 ±
50,8
155,6 ±
61,7
> 0,05
HbA1c (%) 7,5 ± 0,9 7,4 ± 0,7 7,5 ± 1,1 > 0,05
Đường huyết tĩnh mạch lúc đói (8 giờ sau ăn)
trung bình của nhóm nghiên cứu là 145,9 ± 56,8
mg/dL, thấp nhất là 60 mg/dL và cao nhất là 379
mg/dL. Có 38,0% BN có đường huyết ở mức
kiểm soát tốt (dưới 120 mg/dL), 20% BN ở mức
chấp nhận được (120-140 mg/dL), 42% BN có
đường huyết ở mức kiểm soát kém (trên 140
mg/dL). Trong khi đó, tác giả Mai Thế Trạch ghi
nhận mức đường huyết trung bình của bệnh
nhân ĐTĐ ở nội thành TPHCM là 198 ± 15,0
mg/dL(2) cao hơn nghiên cứu của chúng tôi. Sự
khác biệt này có thể do tỷ lệ các BN tuân thủ
điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn.
Bảng 2: So sánh giá trị trung bình của HbA1c qua
các nghiên cứu
Tác giả Cỡ mẫu (n) HbA1c trung bình (%)
Dyck
(16)
238 7,90 ± 1,6
C.Huang
(17)
57 7,84 ± 1,21
J.Davies
(18)
42 11,40 ± 2,10
Chúng tôi 50 7,5 ± 0,9
Mức HbA1c trung bình trong nghiên cứu
của chúng tôi là 7,5 ± 0,9 %, thấp nhất là 5,6%,
cao nhất là đến 9,7%. Đa số BN có mức HbA1c
trên 7,5% (52,0%). Kết quả này khá phù hợp với
nghiên cứu của tác giả Dyck (7,90 ± 1,6)(15) và
C.Huang (7,84 ± 1,21)(2). Mức HbA1c này thấp
hơn nghiên cứu của tác giả J. Davies (11,40 ±
2,10) ghi nhận trên những bệnh nhân ĐTĐ đã có
biến chứng thần kinh(17). Điều này là do những
bệnh nhân tại phòng khám tuân thủ việc điều trị
kiểm soát đường huyết tốt hơn và không phải tất
cả bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
đều đã có biến chứng mạch máu nhỏ như trong
nghiên cứu của tác giả J. Davies.
Chúng tôi chia bệnh nhân thành 3 nhóm lần
lượt có HbA1c < 6,5%; 6,5 – 7,4%; và ≥ 7,5% theo
khuyến cáo điều trị của Hội Nội tiết Hoa Kỳ
(ADA) 2013 và Hội Nội tiết Việt Nam 2009(16,11).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh
nhân kiểm soát đường huyết tốt (HbA1c < 6,5%)
có mức đạm niệu tính từ tỷ số
albumin/creatinine nước tiểu (ACR) là 138,9 ±
129,3 mg/g, nhóm bệnh nhân kiểm soát đường
huyết trung bình (6,5% ≤ HbA1c < 7,5%) có tỷ số
ACR là 498,7 ± 796,8 mg/g, còn nhóm bệnh nhân
kiểm soát đường huyết kém (HbA1c≥ 7,5%) có tỷ
số ACR lên đến 1019,5 ± 1549,4 mg/g. Sự khác
biệt này là có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Như
vậy, giá trị HbA1c có mối liên quan chặt chẽ với
mức độ tiểu đạm trên bệnh nhân ĐTĐ.
Chúng tôi ghi nhận nồng độ creatinine huyết
thanh khác biệt có ý nghĩa giữa 3 nhóm bệnh
nhân (P < 0,001). Dựa trên chỉ số creatinine huyết
thanh, chúng tôi tính được hệ số thanh lọc
creatinine theo công thức Cockcroft Gault, ước
đoán độ lọc cầu thận theo 2 công thức MDRD và
CKD-EPI.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 138
Bảng 3: Liên quan giữa HbA1c và các đặc điểm về biến chứng thận ĐTĐ ở nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Giá trị HbA1c
P < 6,5% 6,5 – 7,4% ≥ 7,5%
Số ca 8 16 26
Creatinine huyết thanh (mg/dl) 0,9 ± 0,3 1,6 ± 1,2 2,1 ± 2,5 < 0,001
Hệ số Cockcroft Gault (mL/phút) 71,4 ± 17,8 59,8 ± 35,3 43,8 ± 25,2 > 0,05
GFR MDRD (mL/phút/1,73m
2
da) 78,3 ± 23,4 65,6 ± 42,5 50,1 ± 26,3 0,06
GFR CKD-EPI (mL/phút/1,73m
2
da) 76,9 ± 20,0 60,8 ± 31,8 49,8 ± 27,8 > 0,05
Tỷ số ACR albumin/creatinine (mg/g) 138,9 ± 129,3 498,7 ± 796,8 1019,5 ± 1549,4 < 0,001
Tiểu đạm đại thể (ACR ≥ 300 mg/g) 12,5% 31,3% 34,6% > 0,05
Suy thận mạn (GFR < 60 mL/phút) 12,5% 56,3% 61,5% < 0,05
Tuy nhiên, kết quả chúng tôi không ghi
nhận sự khác biệt có ý nghĩa giữa 3 nhóm
bệnh nhân trên. Điều này có thể là do cỡ mẫu
trong nghiên cứu của chúng tôi chưa đủ lớn
và chưa thực hiện đa trung tâm nên không
thấy được mối liên quan giữa giá trị trung
bình của HbA1c và độ lọc cầu thận (eGFR). Đa
số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
đều có mức eGFR cao, vì vậy chúng tôi quyết
định chọn công thức CKD-EPI để tính độ lọc
cầu thận ước đoán theo khuyến nghị của tác
giả Jorien Willems và phân loại giai đoạn bệnh
thận mạn theo KDOQI 2002, bệnh nhân được
gọi là suy thận mạn khi có eGFR <
60/mL/phút/1,73m2 da(4). Chúng tôi nhận thấy
nhóm bệnh nhân có mức HbA1c ≥ 7,5% có tỷ
lệ suy thận mạn cao nhất (chiếm 61,5%, P <
0,05). Như vậy, bệnh thận mạn do ĐTĐ tiến
triển đến giai đoạn càng muộn khi khả năng
kiểm soát mức HbA1c của bệnh nhân càng
kém. Do độ lọc cầu thận (tính theo công thức
CKD-EPI) có phân phối bình thường nên
chúng tôi tính hệ số Pearson (r) để so sánh sự
tương quan giữa giá trị HbA1c với mức giảm
eGFR. Kết quả cho thấy có sự tương quan
nghịch có ý nghĩa ở mức trung bình giữa
HbA1c với độ lọc cầu thận (r = -0,371; P < 0,01),
trong khi không ghi nhận được sự tương quan
này ở giá trị đường huyết đói trung bình (r = -
0,223; P > 0,05). Như vậy, rõ ràng chỉ số glycat
hóa nội bào như HbA1c có ưu thế hơn trong
việc đánh giá tốc độ suy giảm chức năng thận
mạn tính ở các bệnh nhân ĐTĐ. Điều này
chứng tỏ các protein nội bào bị glycat hóa rất
rõ trên các bệnh nhân ĐTĐ có suy giảm chức
năng thận, ủng hộ cho lý thuyết màng lọc cầu
thận bị phá hủy bởi các sản phẩm glycat hóa
cuối cùng (AGEs)(8,9).
Do các biến số thời gian tiềm, biên độ, và vận
tốc dẫn truyền của các dây thần kinh ngoại biên
đều có phân phối bình thường nên chúng tôi
tính hệ số Pearson (r) để thể hiện mối tương quan
giữa HbA1c với các chỉ số dẫn truyền thần kinh
ngoại biên.
Bảng 4: Sự tương quan giữa HbA1c và các chỉ số dẫn
truyền thần kinh vận động ngoại biên
Dây thần kinh Chỉ số Bên R P
TK giữa-vận
động
Thời gian
tiềm
T 0,113 > 0,05
P -0,062 > 0,05
Biên độ T -0,002 > 0,05
P 0,016 > 0,05
Vận tốc T -0,294 < 0,05
P -0,186 > 0,05
TK trụ-vận động Thời gian
tiềm
T 0,224 > 0,05
P 0,147 > 0,05
Biên độ T 0,104 > 0,05
P 0,246 0,08
Vận tốc T -0,172 > 0,05
P -0,189 > 0,05
TK chày Thời gian
tiềm
T -0,012 > 0,05
P 0,120 > 0,05
Biên độ T -0,077 > 0,05
P -0,224 > 0,05
Vận tốc T -0,088 > 0,05
P -0,017 > 0,05
TK mác sâu Thời gian
tiềm
T 0,169 > 0,05
P 0,344 < 0,05
Biên độ T -0,021 > 0,05
P -0,253 0,07
Vận tốc T -0,196 > 0,05
P -0,151 > 0,05
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 139
Chúng tôi không ghi nhận được sự tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số HbA1c với
thời gian tiềm, biên độ điện thế, và vận tốc dẫn
truyền ở đa số các dây thần kinh vận động.
Bảng 5: Sự tương quan giữa HbA1c và các chỉ số dẫn
truyền thần kinh cảm giác ngoại biên
Dây thần kinh Chỉ số Bên r P
TK giữa-cảm giác Thời gian
tiềm
T 0,037 > 0,05
P -0,107 > 0,05
Biên độ T -0,149 > 0,05
P -0,079 > 0,05
Vận tốc T -0,155 > 0,05
P -0,038 > 0,05
TK trụ-cảm giác Thời gian
tiềm
T 0,218 > 0,05
P 0,097 > 0,05
Biên độ T -0,041 > 0,05
P -0,260 0,06
Vận tốc T -0,296 < 0,05
P -0,202 > 0,05
TK quay-cảm
giác
Thời gian
tiềm
T 0,039 > 0,05
P 0,026 > 0,05
Biên độ T 0,109 > 0,05
P 0,047 > 0,05
Vận tốc T 0,109 > 0,05
P -0,300 < 0,05
TK mác nông Thời gian
tiềm
T 0,134 > 0,05
P 0,179 > 0,05
Biên độ T 0,130 > 0,05
P -0,176 > 0,05
Vận tốc T -0,052 > 0,05
P -0,147 > 0,05
Chúng tôi không ghi nhận được sự tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số HbA1c với
thời gian tiềm, biên độ điện thế, và vận tốc dẫn
truyền ở đa số các dây thần kinh cảm giác.
Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
có mối liên hệ chặt chẽ giữa chỉ số HbA1c và
biến chứng thận ĐTĐ thể hiện qua tình trạng
tăng mức độ đạm niệu và suy giảm độ lọc cầu
thận, nhưng lại chưa thấy có sự tương quan với
biến chứng thần kinh ngoại biên qua đo dẫn
truyền ở các dây giữa, trụ, quay, chày, mác nông,
mác sâu. Điều này có thể là do tiến trình bệnh lý
của các dây thần kinh ngoại biên còn chịu ảnh
hưởng từ quá trình glycat hóa các protein ngoại
bào, sự tạo thành các sản phẩm có tính thẩm
thấu cao trong bao myelin như sorbitol, kích
hoạt enzyme protein kinase C, chứ không chỉ
phụ thuộc vào lượng protein bội bào bị glycat
hóa(8,9). Vấn đề này đòi hỏi cần có những nghiên
cứu với quy mô lớn hơn, và mở rộng so sánh
HbA1c với các chỉ số đánh giá tình trạng glycat
hóa khác như fructosamine, khoảng trống glycat
hóa nhằm