Mối tương quan giữa siêu âm định lượng và hấp thụ năng lượng tia X kép trong chẩn đoán bệnh loãng xương ở phụ nữ trên 60 tuổi có yếu tố nguy cơ

Mục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán loãng xương của máy siêu âm xương gót ở phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên tại bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả tương quan; các đối tượng được chọn là phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên, được chỉ định đo mật độ xương bằng DXA tại bệnh viện Chợ Rẫy. Trong khoảng thời gian từ 01/04/2010 đến hết 31/06/2010, có tất cả 150 đối tượng thỏa các tiêu chí chọn mẫu. Kết quả: 150 phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên bao gồm: tuổi trên 65 tuổi, mãn kinh sớm trước 45 tuổi, nhẹ cân với BMI dưới 19kg/m2, tiền căn gãy xương ở tuổi trưởng thành trên 45 tuổi, tiền căn sử dụng glucocorticoid trên 3 tháng, có tỉ lệ loãng xương là 83,3%. Mối tương quan T-score của QUS và T-score của DXA vùng cột sống thắt lưng là r = 0,692 (p = 0,0005); BUA QUS và BMD DXA cột sống thắt lưng là r = 0,665 (p = 0,0005). Không có sự tương quan giữa SOS QUS và BMD DXA (r = 0,215; p = 0,08). Ở mức cắt T-socre QUS ≤ -2,5, giá trị chẩn đoán loãng xương của QUS theo độ nhạy, độ chuyên, giá trị chẩn đoán dương lần lượt là: 85,6% - 92%- 98%. Mức cắt của QUS với T-score ≤ - 2,6 và mức cắt BUA QUS ≤ 50,2db/MHz có độ nhay, độ chuyên lần lượt là 82,3% - 96% và 73,6% - 100%.

pdf8 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối tương quan giữa siêu âm định lượng và hấp thụ năng lượng tia X kép trong chẩn đoán bệnh loãng xương ở phụ nữ trên 60 tuổi có yếu tố nguy cơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 137 MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA SIÊU ÂM ĐỊNH LƯỢNG VÀ HẤP THỤ NĂNG LƯỢNG TIA X KÉP TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH LOÃNG XƯƠNG Ở PHỤ NỮ TRÊN 60 TUỔI CÓ YẾU TỐ NGUY CƠ Lê Thị Tường Yên*, Cao Thanh Ngọc**, Nguyễn Trường Sơn*** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định giá trị chẩn đoán loãng xương của máy siêu âm xương gót ở phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên tại bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả tương quan; các đối tượng được chọn là phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên, được chỉ định đo mật độ xương bằng DXA tại bệnh viện Chợ Rẫy. Trong khoảng thời gian từ 01/04/2010 đến hết 31/06/2010, có tất cả 150 đối tượng thỏa các tiêu chí chọn mẫu. Kết quả: 150 phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên bao gồm: tuổi trên 65 tuổi, mãn kinh sớm trước 45 tuổi, nhẹ cân với BMI dưới 19kg/m2, tiền căn gãy xương ở tuổi trưởng thành trên 45 tuổi, tiền căn sử dụng glucocorticoid trên 3 tháng, có tỉ lệ loãng xương là 83,3%. Mối tương quan T-score của QUS và T-score của DXA vùng cột sống thắt lưng là r = 0,692 (p = 0,0005); BUA QUS và BMD DXA cột sống thắt lưng là r = 0,665 (p = 0,0005). Không có sự tương quan giữa SOS QUS và BMD DXA (r = 0,215; p = 0,08). Ở mức cắt T-socre QUS ≤ -2,5, giá trị chẩn đoán loãng xương của QUS theo độ nhạy, độ chuyên, giá trị chẩn đoán dương lần lượt là: 85,6% - 92%- 98%. Mức cắt của QUS với T-score ≤ - 2,6 và mức cắt BUA QUS ≤ 50,2db/MHz có độ nhay, độ chuyên lần lượt là 82,3% - 96% và 73,6% - 100%. Từ khóa: Loãng xương, mật độ xương, siêu âm xương gót (QUS), hấp thụ năng lượng tia X kép (DXA), chỉ số T (T-score), giảm âm trên băng rộng (BUA), tốc độ âm thanh (SOS), mật độ chất khoáng trong xương (BMD), chỉ số khối cơ thể (BMI). ABSTRACT THE CORRELATION BETWEEN QUANTITIVE ULTRASOUND AND DUAL X-RAY ABSORPTION IN OSTEOPOROSIS DIAGNOSIS ON OVER 60 – YEAR – OLD WOMEN WITH RISK FACTOR Le Thi Tuong Yen, Cao Thanh Ngoc, Nguyen Truong Son * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 137 - 144 Object: To determine the osteoporosis diagnostic value of quantitative ultrasound on over 60-year-old women with at least one risk factor. Materials and methods: Description correlation study on 150 over-60-year-old women with risk factor at Cho Ray hospital from 04/01/2010 to 06/31/2010. Results: Osteoporosis prevalence: 83.3% by lumber spine BMD. Strong positive correlation was demontrated between T-score QUS and T-score DXA (lumber spine) (r = 0.692, p = 0.0005); between BUA QUS and BMD DXA (r = 0.665, p = 0.0005). There was no correlation between SOS QUS and BMD DXA (r = * Trung tâm chăm sóc người cao tuổi TPHCM ** Bộ Môn Lão Khoa, ĐHYD TP. Hồ Chí Minh *** Bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: BS Lê Thị Tường Yên. ĐT: 0913914782 Email: tuongyen1973@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 138 0.215, p = 0.08). At the cut-off ≤ -2,5, the sensitivity, specificity and prositive predictive value of QUS were 85.6% - 92%- 98%, respectively. At the cut-off of T-score QUS ≤ -2,6 and the cut-off of BUA QUS ≤ 50.2db/MHz, the sensititvity and specificity were respectively 82.3% - 96% and 73.6% - 100%. Conclusion: QUS can be used to diagnose osteoporosis on over 60 – year – old women with at least one risk factor. Key words: Osteoporosis, BMD – bone mineral density, QUS – quantitative ultrasound, DXA – dual- energy X-ray absorbtionmetry, T-score, BUA – broadband ultrasound attennuation, SOS – speed of sound. ĐẶT VẤN ĐỀ Loãng xương là một bệnh làm tăng nguy cơ gãy xương. Loãng xương là nguyên nhân đứng hàng thứ nhì gây nên bệnh tật chỉ sau bệnh tim mạch, làm giảm chất lượng cuộc sống và gia tăng tỉ lệ tử vong ở cả hai giới(11, 13). Tại Việt Nam tỉ lệ loãng xương ở phụ nữ sau 60 tuổi là 20%(16). Hiện nay, mật độ xương đo bằng phương pháp hấp thụ năng lượng tia X kép (dual-energy X-ray absorptionmetry hay DXA) được xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán loãng xương. Nhưng thực tế tại Việt Nam, loại máy DXA chỉ được trang bị tại một số bệnh viện lớn, chuyên sâu như: Chợ Rẫy, Chấn Thương Chỉnh Hình, Từ Dũ,... với giá thành khá cao nên việc chẩn đoán loãng xương để điều trị tại các tuyến cơ sở luôn gặp khó khăn. Siêu âm định lượng xương gót là một phương pháp mới trong chẩn đoán loãng xương với chi phí hợp lý và có mối tương quan khá cao so với mật độ xương đo bằng DXA. Vấn đề đặt ra là: nếu một bệnh nhân trên 60 tuổi có thể có triệu chứng đau xương ít hay nhiều kéo dài(8) có từ một yếu tố nguy cơ của loãng xương trở lên (tuổi cao trên 65 tuổi, mãn kinh sớm trước 45 tuổi, có tiền căn gãy xương sau 45 tuổi, trong gia đình có mẹ và anh chị em ruột bị gãy xương, có BMI dưới 19 kg/m2, có tiền căn sử dụng GC kéo dài trên 3 tháng) và kết quả mật độ xương theo siêu âm xương gót là loãng xương thì có thể chẩn đoán bệnh nhân bị loãng xương và xem xét điều trị không? Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là tìm phương tiện chẩn đoán loãng xương có giá trị thật sự với chị phí chấp nhận được để hỗ trợ cho việc chẩn đoán và điều trị loãng xương của các bác sĩ đa khoa tuyến cơ sở. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Phụ nữ trên 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên, được chỉ định đo mật độ xương bằng DXA tại phòng khám nội khớp và phòng khám điều trị theo yêu cầu của bệnh viện Chợ Rẫy. Tiêu chuẩn chọn bệnh (1) Phụ nữ trên 60 tuổi đến khám tại bệnh viện Chợ Rẫy được chỉ định đo mật độ xương bằng DXA, có thêm một trong những yếu tố nguy cơ loãng xương theo IOF (BMI < 19kg/m2, tiền căn gãy xương sau 45 tuổi, tiền căn sử dụng GC hoặc hội chứng Cushing trên lâm sàng, tiền căn gia đình có người bị gãy xương hoặc loãng xương, mãn kinh sớm trước 45 tuổi). (2) Phụ nữ trên 65 tuổi không cần có yếu tố nguy cơ loãng xương Tiêu chuẩn loại trừ (1) Bệnh nhân đang sử dụng thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa xương như Heparin, Wafarine, Thyroxin, Estrogen, thuốc tăng mật độ xương. (2) Bệnh nhân bị các bệnh lý phải nằm bất động hoặc hạn chế đi lại trong thời gian dài. (3) Bệnh nhân bị đái tháo đường, bệnh lý tuyến giáp. (4) Bệnh nhân có kết quả chụp X-quang trước đó bị gai xương cột sống thắt lưng, gãy lún các đốt sống thắt lưng. (5) Bệnh nhân được quét qua máy đo DXA tại vùng cột sống thắt lưng có các hình ảnh gai cột sống thắt lưng hoặc bị vẹo cột sống hoặc không thể xác định rõ đường phân cắt giữa các Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 139 đốt sống thắt lưng (do bệnh lý viêm khớp cột sống thắt lưng trước đó hoặc gãy lún các đốt sống thắt lưng). Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế mô tả tương quan; sử dụng kĩ thuật chọn mẫu thuận tiện với cỡ mẫu 150. Dữ liệu được thu thập bằng bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp với các câu hỏi liên quan đến các yếu tố nguy cơ loãng xương và ghi nhận kết quả mật độ xương đo bằng siêu âm xương gót (QUS) và hấp thu năng lượng tia X kép (DXA) vùng cột sống thắt lưng. Xử lí số liệu Phần mềm SPSS 11.5 và Medcalc 11.3.3. KẾT QUẢ Đặc tính của mẫu khảo sát Bảng 1. Đặc tính chung của mẫu sảo sát Đặc tính Giá trị trung bình ± SD Thấp nhất Cao nhất Tuổi 69,05± 6,51 61 89 BMI 23,06±3,21 13,8 30,7 Tuổi mất kinh 48,01±4,97 35 59 Bảng 2. Đặc tính về các yếu tố nguy cơ loãng xương của mẫu khảo sát Đặc tính Tần số Tỉ lệ Tuổi > 65 tuổi 99 66% Độ tuổi mất kinh : < 45 tuổi 48 32,43% Nhẹ cân với BMI <19 kg/m2 13 8,7% Tiền căn bị gãy xương sau 45 tuổi 36 24% Tiền căn dùng GC trên 3 tháng 6 4% Đặc tính Tần số Tỉ lệ Gia đình có mẹ, anh chị ruột bị gãy xương 35 23,3% Bảng 3. Mật độ xương của mẫu khảo sát Đặc tính Giá trị trung bình ± SD Thấp nhất Cao nhất T-scoreDXA -3,352 ± 0,992 -5,9 -0,5 BMD DXA (g/cm2) 0,674 ± 0,115 0,152 0,991 T-scoreQUS -2,826 ± 0,753 -4,3 -0,4 BUA QUS (db/MHz) 48,161 ± 16,2 14 106,5 SOS QUS (m/s) 1497,66 ± 30,52 1469,1 1842,1 Bảng 4. Loãng xương ở phụ nữ có yếu tố nguy cơ Đặc tính Tần số Tỉ lệ Loãng xương : T-score ≤ - 2.5 125 83,3% Thiếu xương : - 2,5 < T-score ≤ -1 24 16% Không loãng xương : T-score > -1 1 0,7% Bảng 5. Tỉ lệ loãng xương trên từng nhóm yếu tố nguy cơ Đặc tính Tần số LX + Tỉ lệ Tuổi > 65 99 89 89,9% Mãn kinh sớm < 45 tuổi 48 44 91,66% Nhẹ cân với BMI <19 kg/m2 13 13 100% Tiền căn bị gãy xương sau 45 tuổi 37 34 91,89% Tiền căn dùng GC trên 3 tháng 6 5 83,33% Gia đình có mẹ và anh chị ruột bị gãy xương. 35 24 68,57% Bảng 6. Tỉ lệ loãng xương trên từng nhóm tuổi Đặc tính Tần số LX + Tỉ lệ 61 tuổi – 65 tuổi 51 36 70,58% 66 tuổi – 70 tuổi 48 40 83,33% 71 tuổi – 75 tuổi 25 23 92% Trên 75 tuổi 26 26 100% Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 140 Mối tương quan giữa mật độ xương đo bằng DXA và QUS Tương quan giữa T- score DXA và T-score QUS DXA 0-1-2-3-4-5-6 SA D L 0 -1 -2 -3 -4 -5 Biểu đồ 1. Mức độ tương quan giữa T-score QUS và T-score DXA Tương quan giữa chỉ số T đo bằng DXA và QUS là tương quan thuận, mức độ cao với hệ số tương quan r = 0,692 (p < 0,05) và phương trình hồi qui tuyến tính dự tính là: T-score QUS = 0,522 T-score DXA – 1,085. Tương quan giữa BMD DXA và BUA QUS BUA/QUS BMD/DXA 1.21.0.8.6.4.20.0 120 100 80 60 40 20 0 -20 Observed Linear Biểu đồ 2. Mức độ tương quan giữa BMD DXA và BUA QUS Tương quan giữa BMD DXA và BUA QUS là tương quan thuận, mức độ cao với hệ số tương quan r = 0,665 (p < 0,05) và phương trình hồi qui tuyến tính dự tính là: BUA QUS = 93,351 BMD DXA – 14,778 T-score DXA T-score QUS Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 141 Tương quan giữa BMD DXA và SOS QUS BMD/DXA 1.21.0.8.6.4.20.0 SO S/ SA D L 1900 1800 1700 1600 1500 1400 Biểu đồ 3. Tương quan giữa BMD DXA và SOS QUS. Tương quan giữa BMD DXA và SOS QUS là tương quan thuận, mức độ rất thấp với hệ số tương quan r = 0,215. Giá trị chẩn đoán loãng xương của QUS, OSTA, NOMOGRAM ở phụ nữ trên 60 tuổi có yếu tố nguy cơ loãng xương Giá trị chẩn đoán loãng xương của T-score QUS ở điểm cắt -2,5 Bảng 10. Giá trị chẩn đoán của mật độ xương bằng phương pháp QUS Phương pháp chẩn đoán DXA + DXA- Kết quả QUS (+) 107 2 PV+ = 98% QUS (-) 18 23 PV- = 56% Kết quả Ss = 85,6% Sp = 92% Mức cắt T-scoreQUS trong chẩn đoán loãng xương Giá trị chẩn đoán của QUS tốt nhất ở mức T- score là -2,6 với độ nhậy 83,2% và độ chuyên 96%. Diện tích dưới đường cong (AUC±SE) là (0.923 ± 0,024) với p < 0,0001. Mức cắt BUA QUS trong chẩn đoán loãng xương Giá trị chuẩn đoán của BUA QUS tốt nhất ở mức cắt BUA ≤ 50,2db/MHz với độ nhạy 73,6% và độ chuyên là 100%. Diện tích dưới đường cong (AUC±SE) là (0,905 ± 0,024) với p < 0,001. BÀN LUẬN Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là phụ nữ sau 60 tuổi có từ một yếu tố nguy cơ loãng xương trở lên và được chỉ định đo mật độ xương bằng máy DXA tại bệnh viện Chợ Rẫy. Các bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu có tất cả 150 người đều thỏa các tiêu chí chọn mẫu. Do đa số các trường hợp chỉ định đo mật độ xương tại bệnh viện Chợ Rẫy là đo tại cột sống thắt lưng, chi phí đo tại mỗi vị trí đều bằng nhau và khá cao; đặc biệt sự giảm mật độ xương xảy ra sớm hơn tại vùng cột sống thắt lưng, nên chúng tôi quyết định lấy kết quả đo mật độ xương tại vùng cột sống thắt lưng để so sánh với mật độ xương tại xương gót đo bằng QUS. Kết quả mật độ xương tại vùng cột sống thắt lưng đo bằng DXA phải đảm bảo đúng tiêu chí chọn mẫu để loại trừ các trường hợp cho kết quả sai lệch do gai xương, xẹp lún đốt sống hoặc viêm cột sống trước đó khiến không xác định được đường ranh giới giữa các đốt sống. Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu của chúng tôi tuổi trung bình là 69, có một trong các yếu tố nguy cơ sau theo tỉ lệ giảm dần: tuổi cao trên 65 tuổi; mãn kinh sớm trước 45 tuổi; tiền căn gãy xương sau 45 tuổi; gia đình có mẹ và anh chị em ruột bị gãy xương; nhẹ cân với BMI dưới 19kg/m2, tiền căn sử dụng GC liên tục trên SOS QUS BMD DXA Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 142 3 tháng hoặc có hội chứng Cushing trên lâm sàng. Tỉ lệ loãng xương ghi nhận ở các đối tượng này khá cao chiếm đến 83%. Khi xem xét theo từng yếu tố nguy cơ, chúng tôi nhận thấy: Tuổi cao Nguy cơ loãng xương tăng theo tuổi và tần suất loãng xương cũng gia tăng đáng kể vào mỗi 5 đến 10 năm sau tuổi 60(7). United States National Health and Nutrition Survey (NHANES) III nghiên cứu trên phụ nữ sau mãn kinh cho kết quả tỉ lệ loãng xương ở phụ nữ tuổi từ 60 đến 69 và trên 70 tuổi lần lượt là 32% và 41%(13). Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngoài yếu tố tuổi các phụ nữ tham gia nghiên cứu còn có thêm các yếu tố nguy cơ loãng xương khác nên tỉ lệ loãng xương đều cao hơn rõ rệt theo từng nhóm tuổi so với các nghiên cứu của nước ngoài, đặc biệt là trên 75 tuổi, tỉ lệ loãng xương là 100%. Một lý do khác khiến tỉ lệ loãng xương của mẫu khảo sát cao có thể do người Việt Nam có vóc người thấp bé, thói quen ít uống sữa khi đã trưởng thành, ít tập luyện thể lực, ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời khiến mật độ xương đỉnh không cao bằng người nước ngoài, trong khi thông số mật độ xương đỉnh được sử dụng để cài đặt trong máy DXA tại Việt Nam lại không dựa trên mật độ xương đỉnh của người Việt Nam. Điều này cũng được đề cập đến trong nghiên cứu của các tác giả Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự(1). Mãn kinh sớm Tuổi mãn kinh sớm trước 45 cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng của loãng xương, đó là do sự thiếu hụt estrogen đưa đến sự mất cân bằng giữa quá trình tạo xương và mất xương(3). Với nghiên cứu đã thực hiện, chúng tôi nhận thấy có đến 91% phụ nữ trên 60 tuổi mãn kinh sớm trước 45 tuổi bị loãng xương. Nhẹ cân và chỉ số khối thấp (BMI) Đây cũng là một chỉ điểm của mật độ xương thấp, ở phụ nữ mãn kinh có BMI thấp dưới mức trung bình nên được xem xét cẩn thận về nguy cơ loãng xương gia tăng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% phụ nữ trên 60 tuổi nhẹ cân với BMI dưới 19kg/m2 đều bị loãng xương. Tiền căn gãy xương Sau 45 tuổi gãy xương do ngã nhẹ là yếu tố nguy cơ của cả loãng xương lẫn gãy xương. Kết quả chúng tôi phân tích được có đến 92% phụ nữ sau 60 tuổi có tiền căn gãy xương trước đó được chẩn đoán loãng xương. Yếu tố nguy cơ loãng xương khác là GC GC là thuốc kháng viêm rất hiệu quả, tuy nhiên nếu sử dụng lâu dài sẽ gây ra loãng xương. Cơ chế loãng xương do GC gây ra chưa được biết rõ ràng, có thể là do GC ức chế trục hạ đồi – tuyến yên làm chậm sự tăng trưởng xương ở người trẻ; GC cũng làm ảnh hưởng đến chức năng của tạo cốt bào, tăng sự tiêu hủy xương, ngăn chặn sự hấp thu calci ở ruột, tăng thải calci qua đường niệu(11), tuy nhiên chỉ có 50% bệnh nhân dùng GC kéo dài bị các biến chứng liên quan đến xương(5). Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 6 bệnh nhân sử dụng GC thỏa tiêu chí chọn mẫu, trong đó có 5 bệnh nhân bị loãng xương, chiếm tỉ lệ 83%, vì số lượng bệnh nhân sử dụng GC trong mẫu khảo sát quá thấp nên tỉ lệ này chỉ có tính chất ghi nhận. Mật độ xương thấp Cũng được tìm thấy ở phụ nữ có tiền căn gia đình bị gãy xương, đặc biệt là mẹ và anh chị em ruột(14). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 68% phụ nữ sau 60 tuổi có tiền căn gia đình bị gãy xương được chẩn đoán là loãng xương. Mối tương quan giữa QUS và DXA trong chẩn đoán loãng xương Về mối tương quan giữa các thông số trên QUS và mật độ xương đo bằng DXA, nghiên cứu của Johansen A và cs thực hiện trên 73 phụ nữ có độ tuổi trung bình là 63, kết quả cho thấy có sự tương quan giữa BUA QUS và mật độ xương tại cổ xương đùi, mật độ xương tại cột sống thắt lưng đo bằng DXA với hệ số tương quan lần lượt là r = 0,64 và r = 0,55 (p < 0,001), trong khi đó SOS QUS lại không tương quan với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 143 mật độ xương đo bằng DXA(4). Các tác giả khác như Kaufman JJ và Luo GM, Meszaros S và cs, cũng có các kết quả nghiên cứu tương tự. Kaufman JJ và cs cho thấy mức độ tương quan giữa mật độ xương đo bằng DXA tại cổ xương đùi và cột sống thắt lưng với BUA QUS khá cao lần lượt là r = 0,58 và r = 0,54 (p < 0,05)(5). Meszaros S và cs cũng cho kết quả mối tương quan giữa BUA QUS với mật độ xương tại cổ xương đùi và cột sống thắt lưng đo bằng DXA là r = 0,56 và r = 0,44 (p < 0,001)(9). Tại Việt Nam, tác giả Phạm Duy Thanh cũng thực hiện nghiên cứu tìm hiểu mối tương quan giữa 2 phương pháp đo mật độ xương nói trên, kết quả tương quan ở mức độ trung bình giữa T- score QUS và T-score DXA là r = 0,5 (p < 0,001)(12). Trong nghiên cứu đã thực hiện, chúng tôi sử dụng phân tích thống kê để tính mối tương quan ở nhiều thông số của cả hai phương pháp QUS và DXA trên các đối tượng nghiên cứu là phụ nữ trên 60 tuổi có yếu tố nguy cơ loãng xương, kết quả cho thấy: - Tương quan giữa T-score QUS và T-score DXA là tương quan thuận, mức độ cao với r = 0,692 (p < 0,05) - Tương quan giữa BUA QUS VÀ BMD DXA là tương quan thuận, mức độ cao với r = 0,665 (p < 0,05) - Không có sự tương quan giữa SOS QUS và BMD DXA. Giá trị tiên đoán loãng xương của QUS ở phụ nữ trên 60 tuổi có yếu tố nguy cơ loãng xương Nghiên cứu của Kaufman JJ và cs cho thấy 90% phụ nữ sau mãn kinh có T-score QUS < -1 cũng cho kết quả loãng xương và thiếu xương theo T-score DXA(5). Theo Jean Hodson và cs, giá trị chẩn đoán của QUS trên 190 phụ nữ từ 60 – 69 tuổi được kết luận theo độ nhạy và độ chuyên lần lượt là 71% và 83%. Kết quả này có vẻ không phù hợp với một xét nghiệm có tính chất sàng lọc bệnh như QUS(2). Trong nghiên cứu của Johansen A về giá trị chẩn đoán loãng xương của QUS, khi phân tích nhóm nhỏ là phụ nữ trên 65 tuổi (đây là đối tượng có chỉ định đo mật độ xương mà không cần phải có yếu tố nguy cơ loãng xương), kết quả cho thấy QUS có độ nhậy 61% trong khi độ chuyên biệt đạt được là 100%(4). Kết quả nghiên cứu mà chúng tôi thu được là: Giá trị tiên đoán của T-score QUS ở điểm cắt T-score là -2,5 có độ nhạy 85,6%; độ chuyên biệt 92%, giá trị tiên đoán dương là 98% và giá trị tiên đoán âm là 56%. Vì chỉ số T sử dụng trong bảng tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương của WHO là dựa trên kết quả mật độ xương của máy DXA chứ không phải T-score QUS nên chúng tôi cũng đã thực hiện phân tích thêm xem liệu có thể xác định được điểm cắt nào khác của T-score QUS giúp chẩn đoán tốt hơn hay không? Phân tích cho kết quả là ở điểm cắt T-score QUS ≤ - 2,6 có độ chuyên biệt cao hơn (96%) với diện tích dưới đường cong là (AUC ± SE) là (0,923 ± 0,024) (p < 0,0001). Điều này chứng tỏ nếu lấy điểm cắt ở mức T-score QUS nhỏ hơn hay bằng -2,6 là loãng xương sẽ giúp chẩn đoán loãng xương tốt hơn. BUA QUS cũng có mối tương quan thuận mức độ cao so với BMD DXA, nên chúng tôi cũng đã tiến hành phân tích thêm về mức cắt của thông số này: kết quả cho thấy ở mức cắt BUA QUS là ≤ 50,2 db/MHz là tốt nhất, với độ chuyên là 100% và diện tích dưới đường cong cũng cho thấy hiệu quả tốt của thông số này với (AUC ± SE) là (0,905 ± 0,024) (p < 0,0001). Như vậy, nếu dựa vào BUA QUS ≤ 50,2 db/MHz, chúng ta vẫn có thể chẩn đoán chính xác loãng xương với độ chuyên biệt lên đến 100%. Mức cắt của BUA QUS cũng được tác giả Johanse
Tài liệu liên quan