Mục tiêu nghiên cứu: Ngoài việc cung cấp máu cho thận, sự hiện diện của động mạch thận cực dưới
(ĐMCD) có thể vô tình trở thành nguyên nhân gây hẹp khúc nối bể thận – niệu quản (BT – NQ) đã được báo
cáo trong nhiều y văn. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự hiện diện của động mạch này cũng gây ra bệnh lý hẹp
khúc nối. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định mối tương quan về sự hiện diện ĐMCD
này ở người bình thường và người có bệnh lý hẹp khúc nối có phẫu thuật.
Phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca với 224 quả thận bình thường (từ xác ướp formole người Việt Nam
trưởng thành tại bộ môn Giải phẫu học trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được phẫu tích từ năm
2003 đến năm 2011 và từ những người hiến thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2005 – 2009) và 399 quả thận
được phẫu thuật do bệnh lý hẹp khúc nối tại 3 bệnh viện lớn (bệnh viện Nhi đồng I, Chợ Rẫy và Bình Dân) từ
năm 2005 – 2010.
Kết quả: Tỉ lệ hiện diện ĐMCD ở nhóm thận bình thường là 18/224 (8%), ở nhóm bệnh lý hẹp khúc nối có
phẫu thuật là 63/339 (15,8%). Trong đó, tỉ lệ hiện diện ĐMCD trong nhóm bệnh lý hẹp khúc nối tại các bệnh
viện Nhi Đồng I là 10/80 (12,5%), Chợ Rẫy là 16/203 (7,9%) và Bình Dân là 37/116 (32,8%). Trong tất cả các
trường hợp này, ĐMCD đi phía trước khúc nối bể thận – niệu quản. Có sự giống nhau về tỉ lệ hiện diện ĐMCD
ở nhóm bệnh viện Chợ Rẫy và Nhi Đồng I (mẫu hồi cứu) với nhóm thận bình thường. Trong khi đó có sự khác
biệt về tỉ hiện diện ĐMCD giữa nhóm bệnh viện Bình Dân (tiền cứu) với nhóm bình thường (tiền cứu) và có tỉ
số chênh OR = 8,27.
Kết luận: Sự hiện diện của ĐMCD thường gặp nhiều hơn trong nhóm có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận –
niệu quản. Nguy cơ mắc bệnh hẹp khúc nối bể thận – niệu quản ở nhóm hiện diện ĐMCD cao gấp 8 lần so với
nhóm không hiện diện động mạch này.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối tương quan về sự hiện diện động mạch thận cực dưới ở người bình thường và người có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận – niệu quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012
92
MỐI TƯƠNG QUAN VỀ SỰ HIỆN DIỆN ĐỘNG MẠCH THẬN CỰC DƯỚI
Ở NGƯỜI BÌNH THƯỜNG VÀ NGƯỜI CÓ BỆNH LÝ HẸP KHÚC NỐI
BỂ THẬN – NIỆU QUẢN
Võ Văn Hải*; Ngô Đại Hải**, Thi Văn Gừng***, Huỳnh Đức Vĩnh Phúc****, Dương Văn Hải*;
Lê Tấn Sơn*, Vũ Lê Chuyên**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Ngoài việc cung cấp máu cho thận, sự hiện diện của động mạch thận cực dưới
(ĐMCD) có thể vô tình trở thành nguyên nhân gây hẹp khúc nối bể thận – niệu quản (BT – NQ) đã được báo
cáo trong nhiều y văn. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự hiện diện của động mạch này cũng gây ra bệnh lý hẹp
khúc nối. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định mối tương quan về sự hiện diện ĐMCD
này ở người bình thường và người có bệnh lý hẹp khúc nối có phẫu thuật.
Phương pháp: Báo cáo hàng loạt ca với 224 quả thận bình thường (từ xác ướp formole người Việt Nam
trưởng thành tại bộ môn Giải phẫu học trường ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được phẫu tích từ năm
2003 đến năm 2011 và từ những người hiến thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2005 – 2009) và 399 quả thận
được phẫu thuật do bệnh lý hẹp khúc nối tại 3 bệnh viện lớn (bệnh viện Nhi đồng I, Chợ Rẫy và Bình Dân) từ
năm 2005 – 2010.
Kết quả: Tỉ lệ hiện diện ĐMCD ở nhóm thận bình thường là 18/224 (8%), ở nhóm bệnh lý hẹp khúc nối có
phẫu thuật là 63/339 (15,8%). Trong đó, tỉ lệ hiện diện ĐMCD trong nhóm bệnh lý hẹp khúc nối tại các bệnh
viện Nhi Đồng I là 10/80 (12,5%), Chợ Rẫy là 16/203 (7,9%) và Bình Dân là 37/116 (32,8%). Trong tất cả các
trường hợp này, ĐMCD đi phía trước khúc nối bể thận – niệu quản. Có sự giống nhau về tỉ lệ hiện diện ĐMCD
ở nhóm bệnh viện Chợ Rẫy và Nhi Đồng I (mẫu hồi cứu) với nhóm thận bình thường. Trong khi đó có sự khác
biệt về tỉ hiện diện ĐMCD giữa nhóm bệnh viện Bình Dân (tiền cứu) với nhóm bình thường (tiền cứu) và có tỉ
số chênh OR = 8,27.
Kết luận: Sự hiện diện của ĐMCD thường gặp nhiều hơn trong nhóm có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận –
niệu quản. Nguy cơ mắc bệnh hẹp khúc nối bể thận – niệu quản ở nhóm hiện diện ĐMCD cao gấp 8 lần so với
nhóm không hiện diện động mạch này.
Từ khóa: động mạch thận, động mạch rốn thận, động mạch thận cực dưới, hẹp khúc nối bể thận – niệu
quản.
ABSTRACT
THE CORRELATION BETWEEN THE LOWER POLE RENAL ARTERY IN NORMAL PEOPLE
AND THAT IN URETEROPELVIC JUNCTION OBSTRUCTION PATIENTS HAVING SURGERY
Vo Van Hai; Ngo Dai Hai, Thi Van Gung, Huynh Duc Vinh Phuc, Duong Van Hai;
Le Tan Son, Vu Le Chuyen * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No.2 – 2012: 92 - 98
Objectives: In addition to supplying blood to the kidneys, the presence of lower pole renal artery can
inadvertently become a cause of ureteropelvic junction obstruction (UPJO), which has often been reported in
* ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Bình Dân TP. Hồ Chí Minh
*** Khoa Chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Chợ Rẫy **** Trung tâm giám định Y khoa
TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Võ Văn Hải ĐT: 0903323420 Email: drvovanhai@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
93
different medical research. However, the presence of the lower pole renal artery does not always cause UPJO.
Therefore, we conducted this study to determine the correlation between the lower pole renal artery in normal
people and that in UPJO patients having surgery.
Method: Report a series of cases with 224 normal kidneys (from the Vietnamese cadaver adult in Anatomy
Department Laboratory of the University of Medicine and Pharmacy of Ho Chi Minh City from 2003 to 2011 and
from the donor cases in Cho Ray hospital from 2005 - 2009) and 399 kidneys of UPJO patients having surgery in
three hospitals (Children Hospital N. 1, Cho Ray and Binh Dan hospitals) from 2005 to 2010.
Results: The prevalence of lower pole renal arteries in the group with normal kidneys is 18/224 (8%), and in
the group with UPJO is 63/339 (15.8%). In particular, the rate of lower pole renal arteries in patients with UPJO
at the Children Hospital N. 1 is 10/80 (12.5%), Cho Ray 16/203 (7.9%) and Binh Dan 37/116 (32.8%). In all of
these cases, the crossing lower pole renal arteries are anterior to UPJ. There was a similar rate of lower pole
arteries in the group of Cho Ray Hospital and Children Hospital N. 1 (retrospective) with normal renal group.
There is a difference between Binh Dan Hospital group (prospective) and the normal renal group (prospective),
with odds ratio OR = 8.27.
Conclusion: The presence of lower pole renal arteries is more common in UPJO patients having surgery.
The risk of UPJO in the group which has lower pole renal arteries is 8 times as high as that in the group without
such arteries.
Keywords: renal artery, renal hilar artery, lower polar artery, ureteropelvic junction obstruction
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với động mạch thận chính thức (hay
còn gọi là ĐM rốn thận), động mạch thận cực
dưới (ĐMCD) cũng góp phần quan trọng trong
việc cung cấp máu ở quả thận mà một khi động
mạch này hiện diện(9,12). Tuy nhiên, sự hiện diện
này đôi khi vô tình là nguyên nhân gây ra hẹp
khúc nối bể thận – niệu quản mà nhiều y văn
trong(8,17) và ngoài nước(1,3,4,10,11,13) đã từng báo cáo.
Mặc dù vậy, không phải sự có mặt này là luôn
gây ra tình trạng hẹp khúc nối(5). Vì vậy chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này để tìm hiểu mối
tương quan về sự hiện diện ĐMCD này giữa
nhóm bình thường (không mắc bệnh) và nhóm
có bệnh lý hẹp khúc nối BT – NQ mà hiện nay ở
người Việt Nam chưa có một y văn nào báo
cáo(6,8,14,15,16,17).
Mục tiêu nghiên cứu
Mối tương quan về tỉ lệ giữa sự hiện động
mạch thận cực dưới ở người bình thường và
người có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận – niệu
quản có phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo hàng loạt ca.
Mẫu khảo sát
Nhóm I (Nhóm không mắc bệnh: Thi hài và
Hiến thận)
Lấy mẫu theo cách thuận tiện và ngẫu
nhiên 81 thi hài (162 quả thận) của người Việt
Nam trưởng thành đã được ướp formol tại bộ
môn Giải Phẫu học - Đại học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2003 đến năm 2011,
và 62 quả thận bình thường được khảo sát
bằng phương pháp chụp DSA của 26 người
tham gia hiến thận tại bệnh viện Chợ Rẫy (Bv
CR) từ năm 2005-2009.
Tiêu chuẩn loại trừ
Đối với mẫu Thi hài
Những xác có sẹo mổ vùng bụng thắt lưng
có can thiệp trực tiếp trên mạch máu thận làm
thay đổi cấu trúc giải phẫu học ban đầu (điều
này thường chỉ thấy được khi phẫu tích vào
vùng bụng và hố thận).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012
94
Đối với người tham gia hiến thận
Không có đầy đủ tiêu chuẩn hay không đủ
hồ sơ lưu trữ của một người tham gia hiến thận
theo tiêu chuẩn áp dụng cho người tham gia
hiến thận tại BVCR (theo Qui trình chọn người
cho Thận của bệnh viện Chợ Rẫy – Hội nghị Tổng
Kết Chương Trình Ghép Thận – Kỷ Yếu Công Trình
1992 – 2000 tại bệnh viện Chợ Rẫy).
Nhóm II (có bệnh lý hẹp khúc nối bể thận –
niệu quản có phẫu thuật)
Khảo sát hồi cứu các trường hợp phẫu thuật
hẹp khúc nối tại BvCR và bệnh viện Nhi Đồng I
(BvNĐI) trong 5 năm (từ năm 2005 – 2009), ghi
nhận số trường hợp báo cáo trong tường trình
phẫu thuật có sự hiện diện ĐMCD. Và khảo sát
tiền cứu các trường hợp phẫu thuật có hẹp khúc
nối BT – NQ từ năm 2006 – 2011 tại bệnh viện
Bình Dân.
Phẫu tích và ghi nhận kết quả nhóm Thi hài
- Đường mổ: chọn đường trắng giữa trên và
dưới rốn, bờ dưới cung sườn hai bên và đường
ngang rốn hai bên đến đường nách giữa qua các
lớp của thành bụng.
- Cắt và bóc tách mạc nối lớn, bộc lộ dạ dày
– ruột. Sau đó lật vùng dạ dày và khối tá tụy
sang bên để bộc lộ vùng thận, rốn thận, niệu
quản, ĐM thận và TM thận, đồng thời quan sát
vị trí nguyên uỷ của ĐM thận xuất phát từ ĐM
chủ bụng.
- Bóc tách thận, cuống thận, TM chủ dưới,
ĐM thận, niệu quản thành một khối, đem ra
ngoài phẫu tích và làm bộc lộ rõ các mạch máu
vùng rốn và cuống thận để quan sát.
Khảo sát phim chụp DSA của người Hiến thận
Tất cả các phim được lưu trữ đầy đủ và đạt
tiêu chuẩn có trong hồ sơ của người tham gia
hiến thận.
Ghi nhận các kết quả vào phiếu quan sát.
Nhập số liệu và xử lý thống kê trên phần mềm
Stata 11.
Nhóm hồi cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện
Nhi Đồng I
Khảo sát toàn bộ các trường hợp đã phẫu
thuật một lần với chẩn đoán Hẹp khúc nối BT –
NQ. Trong tất cả hồ sơ khảo sát, ngoài phần
chẩn đoán trước và sau mổ, trong bản tường
trình phẫu thuậtt có mô tả chi tiết và hình vẽ về
sự hiện diện ĐMCD gây hẹp khúc nối.
Nhóm tiền cứu Hẹp khú nối BT –NQ
Chọn ngẫu nhiên thuận tiện các bệnh nhân
nhập viện bệnh viện Bình Dân (BvBD) từ năm
2006-2010 có chẩn đoán trước và sau mổ là Hẹp
khúc nối BT – NQ. Trong quá trình phẫu thuật,
ghi nhận sự hiện diện của động mạch chèn ép
tại vị trí khúc nối với bể thận dãn to. Khi có sự
hiện diện này, phẫu thuật viên bóc tách tiếp tục
hướng về cực dưới thận để xác định ĐM này
cung cấp máu cho cực dưới của thận. Ghi nhận
trường hợp này vào phiếu quan sát.
KẾT QUẢ
Nhóm I: Không mắc bệnh hẹp khúc nối BT
– NQ (Thi hài – Hiến thận)
Bảng 1. Tóm tắt tỉ lệ các dạng nguyên ủy của các
động mạch thận cực dưới trong nhóm Thi hài và
Hiến thận (DSA)
ĐM cực dưới
Nguyên ủy
ĐM rốn thận ĐM chủ
Thi hài
(162 quả thận)
3 (1,9%) 6 (3,7%)
Hiến thận (DSA)
(62 quả thận)
5 (8,1%) 4 (6,5%)
8 (3,5%) 10 (4,5%) Thi hài – hiến thận (DSA)
(224 quả thận)
Tổng cộng 18 (8,0%)
Qua khảo sát 162 quả thận tại bộ môn Giải
Phẫu học - Đại học Y Dược Tp.HCM, chúng tôi
nhận thấy có 9 quả thận có một ĐM cực dưới,
chiếm tỉ lệ 5,6%. Tất cả các ĐMCD này đều đi
trước bể thận hay BT – NQ. Và trong nhóm
người tham gia hiến thận, chúng tôi khảo sát
được 9 ĐMCD trong số 62 quả thận (14,6%). Các
kết quả khảo sát nguyên ủy ĐMCD, chúng tôi
tóm tắt trong bảng 1. Như vậy qua 224 quả thận
của người bình thường (không mắc bệnh hẹp
khúc nối BT – NQ), chúng tôi có tỉ lệ hiện diện
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
95
ĐMCD là 18/224 (8,0%). Sự khác biệt về tỉ lệ hiện
diện ĐMCD ở bên trái và bên phải, ở giới nam
và nữ không có ý nghĩa thống kê.
Nhóm II: nhóm hẹp khúc nối BT - NQ
Qua khảo sát 399 bệnh nhân hẹp khúc nối
BT – NQ có phẫu thuật tại ba bệnh viện lớn
(bệnh viện Nhi Đồng I, bệnh viện Chợ Rẫy và
bệnh viện Bình Dân) từ năm 2005 -2009 (hồi cứu)
và 2006 -2010 (tiền cứu), chúng tôi có 63 quả
thận bị hẹp khúc nối (tương ứng 63 bệnh nhân)
với sự hiện diện của ĐMCD, chiếm tỉ lệ 15,8%.
Tất cả các ĐMCD này đều đi trước BT – NQ
giống như các đường đi của các ĐMCD được
khảo sát trên thi hài. Và sự hiện diện ĐMCD
trong nhóm bệnh lý hẹp khúc nối BT – NQ có
phẫu thuật cao hơn nhóm không mắc bệnh. Kết
quả khảo sát trên được tóm tắt trong bảng 2, 3,
và 4 và minh họa bằng biểu đồ 1.
Bảng 2. Tóm tắt tỉ lệ các bệnh nhân hẹp khúc nối BT-
NQ có phẫu thuật
Số bệnh nhân hẹp khúc
nối BT–NQ Bệnh
viện
Phương pháp khảo
sát Hiện diện
ĐMCD Tổng số
Nhi
Đồng 1
Hồi cứu (2005 –
2009) 10/80 (12,5%) 80
Chợ Rẫy Hồi cứu (2005 – 2009) 16/203 (7,9%) 203
Bình
Dân
Tiền cứu (2006 –
2010) 37 /116 (32,8%) 116
Tổng 63/399 (15,8%) 399
Bảng 3. Số bệnh nhân hẹp khúc nối có phẫu thuật với
sự hiện diện ĐMCD
Bệnh nhân hẹp khúc nối có phẫu thuật
Phải Trái Chung 2 bên Tỉ lệ Bệnh viện
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Phải Trái
6/12 7/25 10/47
14/3
2 16/59
21/5
7
13/3
7 24/37
BvBD
13/37 24/79 37/116 35,2% 64,8%
4/40 3/37 4/70 5/56 8/110 8/93 7/16 9/16
BvCR
7/77 9/126 16/203 43,8% 56,2%
2/17 0/5 5/49 3/9 7/66 3/14 2/10 8/10
BvNĐ
1
2/22 8/58 10/80 20% 80%
Bệnh nhân hẹp khúc nối có phẫu thuật
Phải Trái Chung 2 bên Tỉ lệ Bệnh viện
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Phải Trái
22/6
3 41/63 TỔN
G 22/136 41/263 63/399 34,9
% 65,1%
Bảng 4. Thống kê tỉ lệ sự hiện diện ĐMCD trong các
nhóm khảo sát
Tỷ lệ hiện diện ĐMCD
Thi hài – Hiến
thận (DSA)
Các bệnh nhân hẹp khúc nối BT -
NQ
p
Bv NĐ1: 10/80 (12,5%) 0,337
Bv CR: 16/203 (7,9%) 1,000
Bv BD: 37/116 (31,9%) 0,000
18/224(8,0%)
Tổng: 63/399 (15,8%) 0,000
Sự khác biệt về sự hiện diện ĐMCD trong
nhóm bệnh viện Nhi Đồng I, bệnh viện Chợ Rẫy
so với nhóm trên thì hài và DSA không có ý
nghĩa thống kê (p=0,337>0,05 và p=1>0,05). Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê xảy ra giữa nhóm
Thi hài–DSA và nhóm bệnh viện Bình Dân
(p=0,00<0,05). Còn nếu xét trên tổng số 3 nhóm
tại 3 bệnh viện với nhóm trên Thi hài–Hiến thận
(DSA) thì sự khác biệt này vẫn có ý nghĩa thống
kê (p=0,000<0,05).
65,1%34,9% B ên P hải
B ên Tr á i
Biểu đồ 1. Tỉ lệ sự hiện diện ĐMCD bên phải và trái
ở bệnh nhân hẹp khúc nối có phẫu thuật
Nếu chúng ta xem xét nhóm Thi hài - Hiến
thận (DSA) là một nhóm chứng ngẫu nhiên so
với nhóm Hẹp khúc nối BT – NQ có phẫu thuật
tại bệnh viện Bình Dân (37/116 = 32,8%) thì kết
quả về tỉ số chênh giữa 2 nhóm là OR = 8,27.
BÀN LUẬN
Sự tồn tại của ĐMCD (mà trước đây thường
gọi là ĐM thận phụ hay ĐM cực dưới bất
thường(2,6,7,8). Qua khảo sát hồi cứu và tiền cứu,
chúng tôi có kết quả như sau: có 10/80 (12,5%)
trường hợp hẹp khúc nối bể thận – niệu quản ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012
96
trẻ em có hiện diện ĐMCD tại Bv Nhi Đồng I, có
16/203 (7,9%) ở người lớn bị hẹp khúc nối BT –
NQ có ĐMCD tại Bv Chợ Rẫy và có 37/116
(32,8%) ở người lớn bị hẹp khúc nối BT – NQ có
ĐMCD tại Bv Bình Dân. Chiếm tỉ lệ chung là
63/399 (15,8%) các trường hợp hẹp khúc nối BT –
NQ có phẫu thuật với sự hiện diện ĐMCD.
Hình 1. Hình phẫu trường của bệnh lý hẹp khúc nối có hiện diện ĐMCD. Hình trên: Phẫu thuật hở ở trẻ nhi
(bệnh viện Nhi Đồng 1). Mũi tên chỉ ĐMCD. Hình dưới: Phẫu thuật nội soi ở người lớn (bệnh viện Bình Dân).
Mũi tên chỉ ĐMCD
Tuy nhiên khi so sánh với sự hiện diện của
ĐMCD trên nhóm khảo sát không có bệnh lý
hẹp khúc nối này (Thi hài – Hiến thận), thì tỉ lệ
hiện diện ĐMCD là 16/224 (8%). Theo bảng
thống kê, chúng tôi nhận thấy không có sự khác
biệt giữa nhóm của bệnh viện Nhi Đồng I, bệnh
viện Chợ Rẫy so với nhóm trên Thi hài–Hiến
thận về sự hiện diện ĐMCD. Tuy nhiên trên
nhóm tiền cứu bệnh viện Bình Dân hay mẫu
chung cả 3 bệnh viện thì vẫn có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với nhóm Thi hài – Hiến thận.
12.5
7.9
32.8
16
8
0
5
10
15
20
25
30
35
Bv NĐ I Bv CR Bv BD Mâu
chung Bv
Thi hài-
Hiến thận
Biểu đồ 2. Tỉ lệ hiện diện ĐMCD trong nhóm khảo
sát
Lý do sự khác biệt giữa các nhóm mẫu trong
ba bệnh viện này có thể là: (1) Cách nhận định
ghi lại chẩn đoán lúc ra viện các phẫu thuật viên
có thể không quan tâm nhiều đến nguyên nhân
gây ra hẹp khúc nối, mặc dù trong hồ sơ Bv Nhi
Đồng I chúng tôi đã cố gắng xem hết tòan bộ hồ
sơ có trong danh sách mà chúng tôi có được tại
khoa Ngoại Tổng Hợp, (2) Theo một số các nhà
phẫu thuật niệu khoa trong nước cũng như trên
thế giới, có thể do phải đi từ vùng hông lưng
phía sau tới để tiếp cận bể thận (bể thận lúc này
đang dãn to và trướng nước) các phẫu thuật
viên bỏ sót hoặc không thể tiếp tục khảo sát
thêm về phía trước (tức sau lựng hay bên dưới
bể thận lúc đang phẫu thuật) nên có thể không
thấy được nguyên nhân này. Dù chúng tôi cũng
đã cẩn thận khảo sát hồ sơ, đã loại trừ những
trường hợp tái phát phải mổ lại tại Bv Nhi Đồng
I (tức là chúng tôi tham khảo hồ sơ sớm nhất là 6
tháng sau mổ để tránh sự tái phát do bỏ sót
ĐMCD tại trẻ em) với thời gian hồi cứu được
chúng tôi chọn từ năm 2005 -2009. Mốc thời gian
mà chúng tôi chọn này cũng là để lọai trừ các
trường hợp tái phát ở người lớn sau phẫu thuật
từ 6- 12 tháng.
Vì mang tích chất đạo đức y trong y học,
trong những ca tiền cứu có sự hiện diện ĐMCD
lúc phẫu thuật, các phẫu thuật viên đã không
thể phẫu tích sâu hơn nữa để xác định nguyên
ủy và các dạng của ĐMCD này. Tuy vậy có một
điểm chung rằng: tất cả các trường hợp hiện
diện ĐMCD trên mẫu Thi hài và ở bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
97
hẹp khúc nối BT – NQ có phẫu thuật thì ĐMCD
đều đi phía trước BT – NQ.
Tỉ lệ sự xuất hiện các ĐMCD hiện diện trong
bệnh lý thận ứ nước do hẹp khúc nối BT – NQ
của mẫu chúng tôi so sánh với các tác giả được
tóm tắt trong biểu đồ 3.
12.5
7.9
32.8
16
20.29
33 33.33 32
19.27
0
5
10
15
20
25
30
35
Bv NĐ I Bv CR Bv BD Mâu chung Vu Lê
Chuyên
Johnston Stephens Clark Rigas
Biểu đồ 3. So sánh tỉ lệ hiện diện động mạch thận
cực dưới trong các nghiên cứu
Như vậy sự hiện diện của ĐMCD thường
gặp nhiểu hơn trong nhóm bệnh lý hẹp khúc nối
BT – NQ bẩm sinh có phẫu thuật so với nhóm
bình thường cũng như nhiều y văn đã từng
công bố(3,4,10,13,17).
Trong khi đó, nếu xem xét nhóm Thi hài –
Hiến thận (DSA) như một nhóm chứng thì so
với nhóm Hẹp khúc nối BT – NQ (bệnh viện
Bình Dân) thì chúng ta có tỉ số chênh OR = 8,27.
Điều này có nghĩa rằng: nguy cơ mắc bệnh hẹp
khúc nối BT – NQ ở nhóm hiện diện ĐMCD cao
gấp 8 lần so với ở nhóm không hiện diện
ĐMCD. Trong vấn đề so sánh này, chúng tôi
chọn nhóm bệnh viện Bình Dân vì: (1) tính chất
tiền cứu, (2) bệnh nhân là người trưởng thành
giống như trong mẫu Thi hài – Hiến thận và (3)
có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về sự hiện diện
ĐMCD so với nhóm Thi hài – Hiến thận (DSA),
trong khi 2 nhóm bệnh viện khảo sát hồi cứu
còn lại thì không có sự khác biệt này. Tuy nhiên,
vì nhóm Thi hài – Hiến thận chưa phải hoàn
toàn là một nhóm chứng thực sự trong quá trình
lấy mẫu và so sánh cùng lúc với nhóm tại bệnh
viện Bình Dân. Do đó kết quả trên cũng chỉ
mang tính chất tham khảo tương đối. Vì vậy cần
có một khảo sát sâu hơn, rộng hơn nữa để xác
nhận lại con số trên.
KẾT LUẬN
Qua mẫu khảo sát từ 4 trung tâm, chúng tôi
tạm kết luận là sự hiện diện động mạch thận cực
dưới thường gặp nhiều hơn trong nhóm có bệnh
lý hẹp khúc nối BT – NQ so với nhóm bình
thường. Nguy cơ mắc bệnh hẹp khúc nối BT –
NQ ở nhóm hiện diện động mạch thận cực dưới
cao gấp 8 lần so với ở nhóm không hiện diện
động mạch này.
ĐỀ XUẤT
Do nhóm Thi hài – Hiến thận (DSA) vẫn
chưa thực sự được xem là nhóm chứng trong
qua trình khảo sát cùng lúc với nhóm tiền cứu
hẹp khúc nối BT – NQ có phẫu thuật tại bệnh
viện Bình Dân, do đó tỉ số chênh OR chỉ mang
tính chất tham khảo. Vì vậy, chúng ta cần có
một nghiên cứu khác lớn hơn, rộng hơn để xác
thực lại con số về tỉ lệ nguy cơ mắc bệnh trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aaron G, Robbins M.A. (1984). Hydronephrosis due to aberrant
vessels: remarkable familial incidence with report of cases. J. Urol
60: 702.
2. Allen T. (1970). Congenital ureteral stricture. J Urol, 104: 19
3. Clark W.R., Malek R.S. (1988). Ueteropelvic Junction
Obstruction. Observation on the Classic Type in Adults, J Urol,
138: 276 – 279.
4. Johnston J.H. et al (1977). Pelvic hydronephrosis in children: A
review of 219 personal cases. J Urol 117: 97.
5. Hanna M.K. (1978), “Some observations on congenital
ureteropelvic junction obstruction”. Urology, Vol. XII, No. 2, pp.
152-159
6. Lê Văn Cường (1991). Các dạng và dị dạng của động mạch ở
người Việt Nam. Luận án phó tiến sĩ y học, TP. Hồ Chí Minh:
123 – 127.
7. Merklin R.J., Michele N.A. (1958). The variant renal and
suprarenal blood supply with data on the inferior phrenic,
ureteral and gonadal arteries: A statistical analysis based on 185
dissections and review of the literature. J Int Coll Surg, 29: 40 –
75.
8. Nguyễn Thanh Liêm (2002). Thận ứ nước do tắc phần nối bể
thận – niệu quản. Phẫu Thuật Tiết Niệu Trẻ Em, NXB Y học: 7 –
23.
9. Ravery V., Cussenot O., Desgrandchamps F., Teillac P., Martin-
Bouyer Y., Lassau J. P., Le Duc A. (1993), “Variations in arterial
blood supply and the risk of hemorrhage during percutaneous
treatment of lesions of the pelviureteral junction obstruction:
report of a case of